"Khách của trưởng làng nhờ chuyển lời đến cậu chủ." Anne chợt gõ cửa phòng cậu, đẩy hé vào mà rụt rè giải thích. "Hình như anh ấy muốn gửi một lá thư… nhưng không biết tìm chim đưa thư ở đâu nên nhờ cậu dẫn đi."
Lại là Hederick. Cậu thở dài, chợt nhớ ra người Thợ Săn có nhắc đến 'báo cáo' gì đấy cần gửi gấp, nhưng chưa tròn một canh giờ trôi qua kia mà.
"Cảm ơn." Alfred đáp lại. "Tôi đến gặp anh ta ngay."
~
Tháp Chim sừng sững và vững chãi, vươn lên giữa những ngôi nhà lợp mái rơm lụp xụp như nấm. Cây thường xuân già bám vào tường đá, quấn quít tựa tấm rèm rủ xuống những ô cửa sổ hình bán nguyệt, tươi xanh bất chấp mùa đông khắc nghiệt. Nơi ấy vốn dĩ là thư viện, nhưng dân làng quen gọi bằng cái tên Tháp Chim, đặt tên theo lũ bồ câu gù gù đậu rợp đỉnh tháp. Ồn ào, dạn người, lại béo tròn trùng trục, chúng được nuôi để phục vụ cho việc thư từ của gia đình trưởng làng, do James Bryson - người quản tháp - chăm lo.
“Ông ấy và Jane Bryson là… ?” Hederick dò hỏi.
“Là cha cô ấy.” Alfred trả lời, sau một thoáng ngập ngừng bèn thêm vào. “Nếu có thể, mong anh đừng đả động gì về chuyện con quỷ trước mặt ông ấy.”
Với nét mặt âm trầm, người Thợ Săn gật đầu.
Một lúc lâu sau khi gõ cửa, người đàn ông mới đẩy mở cánh cửa nặng nề của Tháp Chim, hé ra nửa bên mặt. Vết tích của tháng năm hằn sâu nơi những đường nét trên khuôn mặt, chùng xuống rệu rã. Con mắt nâu đẫn đờ mỏi mệt thoại đầu trợn lên ngạc nhiên, rồi dịu lại hiền hoà.
"Kìa, Alfred. Thời tiết thế này sao cháu lại ghé qua?" Người canh tháp kêu lên, đẩy rộng cửa toan bước ra, để rồi nụ cười trên môi đông cứng khi ánh mắt chạm đến người Thợ Săn đang đứng sau cậu. “Còn đây là…?”
"Kyle Hederick." Anh ta tiến đến trước, chìa ra bàn tay. "Tôi vừa ghé làng chưa được bao lâu. Hân hạnh được gặp."
"À. Vâng…" Bryson ngắc ngứ, đôi mày cau lại đầy khổ sở. Ông miễn cưỡng bắt lấy bàn tay Hederick, rồi trụt lại sau chưa đầy một tích tắc như thể bị bỏng, "...rất hân hạnh. Tôi đã nghe qua về anh… Vậy…" ông đưa mắt sang Alfred, dẫu câu hỏi vẫn hướng về anh ta, "Hederick, nhỉ? Anh có việc gì…?"
"Anh ấy có thư cần gửi." Alfred bảo, còn anh ta giơ lá thư lên vẫy vẫy làm vật chứng.
"À à! Phải! Dĩ nhiên rồi! Thật là… còn việc gì vào đây được chứ? Cái thân già này lú lẫn cả rồi.” Bryson cười thành tiếng, bật ra một tràn lộn xộn những câu cảm thán. “Ồ phải! Tôi quên khuấy mất. Phép lịch sự bay biến đi đâu rồi. Mời anh vào!"
Hederick ném cho cậu một ánh nhìn ẩn ý. Nụ cười và những lời gượng gạo kia tuyệt nhiên không thể đánh lừa anh, nhưng người Thợ Săn quyết định không nhận xét gì về trạng thái bồn chồn của ông, chỉ nhẹ nhàng mỉm cười đáp lại.
“Vậy… để tôi dẫn cậu lên chuồng bồ câu.” Đợi họ lách người vào trong, ông Bryson đưa vai xô cánh cửa đóng lại. “Còn cháu thì sao, Alfred?”
"Cháu đợi ở đây ạ.” Cậu nhún vai, đoạn đanh giọng bảo người Thợ Săn. “Nhanh cái tay lên nhé, Hederick.”
Bryson gật đầu, rồi vẫy tay ra hiệu cho anh ta theo sau, leo lên chiếc thang xoắn ốc dẫn đến tầng trên cùng. Còn lại một mình, Alfred bước dọc những kệ sách cao vượt đầu người, sắp đặt san sát nhau tạo thành lối đi hẹp tựa mê cung.
Với tường đá vững chãi giúp duy trì nhiệt độ thích hợp suốt bốn mùa và tạo thành một môi trường cách âm lý tưởng, thấm đẫm hương sách cũ và mùi gỗ cháy nồng nàn nơi lò sưởi, Tháp Chim là địa phận của hàng ngàn quyển sách yên lặng nép mình trên khung kệ, tách biệt khỏi mọi bộn bề ngoài kia. Từng ngăn, từng ngăn kệ lèn chặt những sách, nhiều đến đỗi có lẽ phải mất cả đời người để đọc hết. Trên trần đá khảm vài viên lân tinh thạch soi ánh vàng dịu mắt, hòa cùng ánh mặt trời rọi qua những ô kính màu tô thêm sắc hoài cổ lên những trang giấy màu ngà.
Sau hàng giờ giành ra lê la giữa những chồng sách chất cao, Alfred đã quen thuộc với nơi này. Các thể loại sách được xếp ở khu nào, những cuốn yêu thích của cậu nằm ở hàng kệ nào, những cuốn nào đã bị xê dịch, cậu đều có thể nhớ chính xác. Vừa bước đi, cậu vừa lướt tay qua hàng gáy bọc da cũ kỹ. Đa số những cuốn sách ở đây có tuổi đời bỏ xa cậu và cả ông nữa, Bryson đã nói thế. Chúng do nhà Grimshaw thu thập, một số it sau khi qua chọn lọc được đưa vào thư phòng gia chủ nhà Grimshaw, còn lại chuyển vào Tháp Chim.
Tiêu chí chọn của họ là thế nào ấy nhỉ, Alfred từng thắc mắc. Chịu, Bryson đáp, cái đấy cháu đi mà hỏi trưởng làng.
Ông Bryson luôn hào hứng mỗi khi có người ghé qua Tháp Chim, vì thế mà hoan nghênh những chuyến thăm của cậu. Thật tuyệt khi có thêm một gương mặt thân quen, ông vui vẻ bảo, ta đã phát ngán việc giữ cái nơi này tươm tất mà chả mấy ai màng ngó ngàng.
Đều đặn ngày qua ngày, bất chấp tuổi già cùng cái lưng ê nhức những hôm trở trời, ông lăm lăm cây chổi lông gà trong tay như người lính nắm chặt giáo mác, chiến đấu với từng hạt bụi như đang càn phá quân thù. Thi thoảng, ông bận rộn kiểm kê thùng sách mới được gửi đến, đặt sang bên những cuốn đã mờ nhoè hay tả tơi chờ gửi đi phục chế. Chẳng mấy khi yêu cầu ấy được thông qua, nhưng người quản tháp vẫn không từ bỏ.
Đôi lúc nhã hứng, ông lại dọn ra một góc sáng sủa nơi tầng trên, rủ đám trẻ trong làng ghé qua rồi đọc chuyện. Lũ trẻ thích tụ tập nghe chuyện, nhưng đa số lại lắc đầu nguầy nguậy khi ông dúi sách vào tay chúng. Chúng thích những cuốn sách tranh rực rỡ, nhưng lại chẳng hứng thú với những cuốn có nhiều chữ. Với vốn chữ nghĩa ít ỏi của bọn nhóc, đọc được một quyển sách hoàn chỉnh là một thử thách khó nhằn, vừa cần tập trung vừa kém hấp dẫn hơn những trò nghịch ngợm khác.
Oái oăm thay, chính cô con gái cũng không hiểu nổi niềm đam mê của cha mình. "Ông ấy chẳng còn gì khác để làm ngoài rủ rê mấy đứa nhóc sao?” Jane từng thở dài mà bảo thế khi chị dúi cho cậu mẻ bánh mang qua Tháp Chim cho ‘buổi đọc sách’.
Nửa giờ sau, ông Bryson vừa ăn phần bánh bọn trẻ để thừa vừa cao giọng phàn nàn. “Con bé ngốc! Sao chẳng giống cha nó ở điểm nào. Thôi thì con bé không thích sách vở còn tạm chấp nhận được, nhưng đừng nói là nó cũng như đám người kia, thấy việc cha nó đang làm là gàn dở nhé!” Ông huyên thuyên bất tận, trong lúc Alfred ngồi cạnh lơ đễnh gật gù. Bao giờ cũng thế, cậu chỉ lắng nghe mà rất hiếm khi đáp lại hay nhận xét điều gì, nhưng như vậy đã đủ để khiến ông hài lòng.
Hoặc James Bryson cố tình lờ đi, hoặc ông thực sự không hiểu rằng với dân làng, những cuốn sách mà ông nâng niu, những câu chữ mà ông ca ngợi, là thứ gần như vô dụng. Tương tự bọn trẻ, nào phải họ thờ ơ trước những câu chuyện kỳ thú bên lửa hội, những truyền thuyết và điển tích từ bao đời truyền lại, những bài đồng dao mà đứa trẻ nào cũng biết ngân nga. Và vì đã biết tất cả những điều đó, họ không thấy sách thì có ích lợi gì. Chúng chẳng thể khiến vụ mùa thêm sai trĩu, đàn gà thêm mắn đẻ, hay mẻ cá thêm nặng lưới, mà trái lại còn tốn biết bao thời gian quý giá để đánh vật với nó.
Sách là thứ cho người khá giả, cho những kẻ thảnh thơi cái ăn cái mặc, dân làng cho là thế. Alfred không muốn từ nhận, nhưng họ có phần đúng.
Ở Belltree này, giấy, bút và khả năng đọc viết là những xa xỉ phẩm. Cả ông Bryson và cậu, đều là những kẻ được hưởng đặc quyền.
"Lựa được cuốn nào không, Alfred?" Tiếng ông Bryson đột ngột vang lên, cùng với tiếng bước chân lộp cộp xuống cầu thang. Cậu quay ngoắt lại, lắc đầu rồi lần ngược trở ra chân cầu thang.
"Cũng phải.” Ông cười rầu rĩ, bước chân nặng nề đáp xuống mặt sàn. “ Lúc này thì còn gì là tâm trạng.”
"Ông sống ở đây nhỉ?"
Theo sau người quản tháp, Hederick bất ngờ lên tiếng. Bryson liếc mắt sang anh, lưỡng lự đôi chút trước khi đáp lời.
"Vâng, ở tầng trên ấy. Nơi đây tiện nghi đủ cả."
“Vậy ư?” Người Thợ Săn nhảy cóc hai ba bậc thang, nhanh nhẹn lách qua Bryson mà đến đứng cạnh cậu, hất đầy về phía cánh cửa thấp lùn nơi gầm cầu thang. Nó chỉ cao ngang ngực một người trưởng thành. Alfred phải khom lưng khuỵu gối mỗi lần giúp ông chuyển đồ qua khung cửa ấy, vậy mà vẫn cụng đầu không biết bao nhiêu lần. “Tôi thắc mắc từ ban nãy rồi… nhưng cánh cửa kia dẫn đi đâu thế?
“Cái đó… là tầng hầm. Tôi chất mất món đồ linh tinh ấy mấy! Chả có gì đâu!”
“À, ra vậy, tầng hầm. Những kiến trúc như vậy thường có hầm mà nhỉ?” Hederick nhắc lại, tiến đến gần mà quan sát cánh cửa. Anh ta chợt chững lại, nhướng mày thắc mắc. “Lạ thật. Hình như tôi cảm thấy có luồng khí lạnh thoát ra từ đấy. Ông trữ thứ gì mà cần giữ lạnh tcaế?”
Để kiểm chứng lời người Thợ Săn, Alfred tiến lại rồi áp bàn tay vào cửa hầm, vô tình bỏ qua khoảng khắc gương mặt ông Bryson đông cứng lại. Quả nhiên, cánh cửa bằng đồng lạnh như băng khiến cậu phải vội vã rụt tay lại, lạnh một cách bất thường so với nhiệt độ căn phòng, dù là đang giữa đông. Nhưng khí lạnh toát ra từ đấy lại không đáng kể. Nếu cao gông vì Hederick nói ra, cậu đã chẳng tài nào nhận thấy.
“Lạnh hả?” Ông Bryson cười giả lả, đưa tay cào mái tóc hoa râm ra vẻ bối rối. “À… phải rồi, đương nhiên là lạnh chứ! Tôi có để mấy bông Băng Linh Thảo dưới đó mà!”
Đầu thu này, có kẻ gửi cha dượng vài đoá Băng Linh Thảo làm quà. Đó là loài linh thảo quý hiếm, chỉ có thể sinh trưởng nơi sườn núi những vùng cực hàn, quanh năm chìm trong băng tuyết. Những cánh hoa thấm đẫm sương giá trong suốt tựa băng, tỏa ra làn hơi rét buốt, lạnh đến đỗi tay trần chẳng thể chạm vào. Ông Edmond giữ lại hai đoá hoa: một cho phu nhân, một đưa cho phòng bếp bảo quản lương thực; số còn lại không để làm gì bèn đưa qua Tháp Chim.
Phải rồi, Alfred tự nhủ, ông ấy đã cất chúng dưới hầm, thảo nào lại lạnh cóng đến thế. Nhưng khi nghe những lời tiếp theo của người quản tháp, Alfred không khỏi bất ngờ.
"Anh biết đấy, mấy cái bông đó giữ lạnh tốt lắm,” Ông Bryson nhún vai, “Nên dạo này tôi cho lão bán thịt thuê tầng hầm trữ hàng."
“Trữ hàng ư?” Người Thợ Săn nhướng mày. "Nhưng thế chẳng phải mùi tanh của thịt sẽ ám vào sách sao? Về lâu dài thì thật không ổn."
Cái vẻ bối rối vụt biến mất, đôi mắt nâu u uẩn bỗng đanh lại, Bryson hừ lạnh.
"Anh nói như thể tôi muốn thế. Phải cho lão vác mấy thứ dơ bẩn vào đây, tôi mới là người đau lòng nhất ở đây này!" Quen thói, vô tình bắt được kẻ trút bầu tâm trạng, ông bắt đầu thao thao bất tuyệt. “Nhưng trời ơi, chỉ tiền lương bổng thì đâu có đủ để chăm lo nơi này. Đồng lương bao năm vẫn thế, mà mấy khoản chi tiêu thì ngày một thêm phát sinh. Tiền đồ ăn cho lũ chim, tiền bảo dưỡng với phục chế mớ sách sắp mục đến nơi, tiền xử lý lũ mối mọt hoành hành, còn phải sửa lại đôi chỗ cái tháp. Đắt đỏ! Tôi đã dè sẻn lắm rồi, mỗi lần mua một miếng thịt miếng cá là tiếc đứt ruột. Vẫn là không đủ! Vậy mà trưởng làng có nhìn đến nửa con mắt đâu!"
“Cũ quá thì vứt đi, thiếu tiền thì bán bớt đi. Nhiều như thế, bớt đi vài cuốn thì có làm sao, nhất là những quyển sách truyện hoang đường vớ vẩn. Ông ta nói thế đấy! Nghe mà bủn rủn cả người. Sao tôi làm thế được!" Hai tay múa may quay cuồng, Bryson cao giọng, những ức nghẹn dồn nén nay đột ngột vỡ oà, khiến Alfred lẫn người Thợ Săn đều không kịp trở tay.
Người vợ qua đời sau cơn vượt cạn, để lại sinh linh đỏ hỏn vừa cất tiếng khóc đầu đời là máu mủ, là niềm an ủi duy nhất của đời ông. Từ một kẻ chỉ biết cắm mặt vào sách vở, Bryson vụng về học cách đảm đương trách nhiệm nghiêm khắc dạy bảo của người cha, tập tành làm đôi tay săn sóc dịu dàng của người mẹ, đơn độc nuôi dạy đứa trẻ khôn lớn. Suốt bao năm dài, hai cha con họ nương tự nơi nhau, là cả thế giới nhỏ bé ấm êm của nhau.
Mọi yêu thương và ân cần, mọi tự hào và hy vọng, Bryson đã gửi gắm tất thảy nơi người con gái.
Nhưng Miseria - nữ thần của bất hạnh - chưa bao giờ kẻ dịu dàng.
Ngày người ta tìm thấy Jane vùi trong tuyết lạnh, một phần trong ông như đã chết theo.
"Con gái tôi mất rồi." James Bryson yếu ớt thì thầm, rồi bật thành một tràn cười cay đắng, gầm lên khóc than. "Cái thân già này còn mỗi nó là niềm an ủi, thế mà bọn chúng nhẫn tâm cướp đi cả con bé rồi! Chỉ là một sự cố thương tâm, là do nó dại dột đêm khuya vào rừng nên mới bị thú dữ tấn công, bọn chúng dám mở mồm nói những lời ngông cuồng như thế đấy! Tôi có thể thấp cổ bé họng, tôi có thể hèn kém, nhưng tôi đâu có mù, đâu có ngu! Chúng nó giết con gái tôi! Là chúng cướp đi cả… cả-"
Thanh âm từ cuống họng của ông lạc đi, lắng xuống thành một tiếng nghèn nghẹn tựa hồ âm thanh một sinh vật giãy chết, rồi bỗng chốc lại cất cao giọng. Trong cơn kích động, Bryson giang rộng hai tay, hùng hồ tựa một lời tuyên cáo.
"Tháp Chim này là thứ duy nhất tôi còn lại, cái công trình giữ gìn cả đời của tôi. Bọn chúng cứ việc coi thường, cứ việc cười nhạo, nhưng không! Không! Thà chết cũng đừng hòng bắt tôi từ bỏ bất cứ thứ gì nơi đây! Chúng không thể tước thêm được thứ gì từ tôi nữa đâu!"
Dứt lời, ông hổn hển kiệt sức, cặp mắt ươn ướt vẫn long lên đỏ au đầy hung hãn. Hederick liếc nhìn qua cậu, nhướng mắt băn khoăn.
Chỉ giỏi gây chuyện, Alfred thầm mắng anh ta, ái ngại nhìn ông Bryson.
"Cháu… xin lỗi." Chẳng biết nói gì hơn, cậu ấm úng bật ra những gì hiện đang có trong đầu, dù tất cả chỉ vọn vẻn đôi ba từ.
"Thôi thôi." Bryson buông thõng đôi vai, cố lấy lại bình tĩnh mà nặn ra một nụ cười mếu máo. "Thằng nhóc này, xin lỗi cái gì chứ? Ta lại lên cơn nói khùng nói điên ấy mà, kệ đi.” Ông xùy xùy mấy tiếng, phụ họa bằng một tràng cười khô khốc. "Quen thói nói xàm mất rồi! Thật là.” Quay sang Hederick, ông thở dài. "Tôi làm phí thời gian mọi người quá."
"Ồ không." Anh ta lắc đầu, rũ mắt đầy chân thành. "Là do tôi vô ý gợi lên chuyện đau buồn. Thật xin lỗi. Nhưng nếu ông không phiền…" Hederick thoáng dừng lại, thận trọng liếc nhìn sắc mặt người quản tháp. "Thật ra tôi vẫn còn một việc muốn nhờ."
"Hả? À, dĩ nhiên là được." Ông Bryson lúng túng, nhưng cũng gật đầu. “...là việc gì thế?”
"Cho tôi hỏi, làng Belltree có sổ lưu trữ không?"
“Ý anh là ghi chép lại chuyện làng ấy hả? Sổ thì không, nhưng giấy tờ các loại thì có. Ngay tầng trên thôi. Cậu muốn xem qua á?”
“Để cháu.” Không đợi Hederick đáp lại, cậu nhanh nhảu xen vào. “Để cháu dẫn anh ta đi cho, cháu biết chỗ mà. Bọn cháu quấy rầy ông nhiều rồi, ông về phòng nghỉ ngơi đi ạ.”
"Thế có ổn không?" Ông Bryson hơi ngần ngại. Alfred nghiêm túc gật đầu, thêm vào rằng nhất định sẽ đóng cửa cận thận khi rời đi. May thay, người Thợ Săn cũng hùa theo cậu. Bất đắc dĩ, người quản tháp đành đồng ý, chần chừ đôi lát trước khi quay ngược về phòng riêng nơi tầng hai, bóng lưng liêu xiêu khuất dần. Đợi khi có tiếng cửa đóng ‘cạch’ vọng xuống, Alfred mới có thể thở phắt nhẹ nhõm.
“Ông ta có gì đó rất bất thường.” Hederick chợt nhận xét, ánh mắt vẫn chưa rời khỏi nơi Bryson đã mất dạng.
“Ông ấy vừa mất người thân mà.” Cậu vô thức đanh giọng, đôi mày cau lại.
“Chính vậy đấy.” Người Thợ Săn bình thản đáp. Để rồi trước khi Alfred kịp thắc mắc, anh đã nhanh chóng chuyển chủ đề. “Được rồi, cậu bảo mình biết chỗ phải không? Mời dẫn đường.”
~
Thư viện làng vốn vắng người qua lại, nhưng số lần có ai đặt chân vào khu lưu trữ lại càng hiếm, có thể đếm trên đầu ngón tay. Cả Alfred cũng chỉ mò lên đôi ba lần thăm thú rồi thôi, cảm thấy nó buồn chán vô cùng. Như tên gọi, nơi đây không để sách, mà lưu giữ các thư tịch và văn kiện. Ông Bryson ít khi bắt tay vào sắp xếp lại chúng, mang mớ giấy tờ trưởng làng đưa qua mà nhét bừa vào những ngăn kệ trống. Một khi đã bị vất vào đây, ông Grimshaw chẳng bao giờ cần tìm lại chúng, nên có đặt loạn lên vẫn chẳng hề gì.
Alfred bước dọc những dãy kệ song song, Hederick bám sát sau gót. Những viên lân tinh thạch thưa thớt trên trần bị lu mờ bởi ánh sáng chiếu vào qua những ô kính màu, nhuộm nắng trong những mảng đa sắc lung linh.
“Anh muốn tìm gì thế?” Cậu dừng bước, hỏi. “Nơi này có hơi lộn xộn, e rằng phải mất kha khá thời gian đào bới.”
Đấy là nếu may mắn tìm ra.
"Thế thì phiền thật.” Hederick lắc đầu uể oải. “Tuy tôi đã xem qua ở thị trấn, ghi chép tại làng có khi vẫn chính xác hơn, nên tôi muốn kiểm tra thử. Cậu biết đấy, tôi khó mà tin được đây là lần đầu quỷ tấn công làng này."
Alfred ổ một tiếng, ngập ngừng. “Ra vậy… Tài liệu về những tai nạn chết người hình như đánh dấu bằng dây buộc đen, nhưng… tôi e rằng đúng là thế đấy. Chưa từng có con quỷ nào xuất hiện ở Belltree trước đây đâu." Trước ánh nhìn nghi hoặc của anh, Alfred đánh mắt đi nơi khác, phân trần. “Chỉ là linh cảm thôi. Anh biết đấy, với một ngôi làng nhỏ như của chúng tôi, nếu có xảy ra điều hãi hùng như thế, dù là trăm năm sau người ta vẫn sẽ rôm rả truyền tai nhau. Nhưng bấy lâu nay, tôi chưa từng nghe về điều gì tương tự ở Belltree này đâu.”
“Cũng phải nhỉ? Bia miệng đôi khi lợi hại hơn ghi chép suông nhiều.” Hederick gật gù. “Nhưng đã lỡ rồi, đợi tôi thử tìm một lát vậy. Cậu nói là dây buộc đen, phải không?”
Cậu tựa lưng vào khung tủ, dõi theo người Thợ Săn lướt giữa những hàng kệ, thi thoảng dừng lại trong mà lôi ra một cuộn giấy, hoặc một tập giấy đựng trong bìa nâu nhàu nhĩ. Anh ta phủi đi lớp bụi mỏng, mở dây buộc rồi lướt mắt trên trang giấy, chỉ sau chốc lát liền cất nó về nơi cũ mà bước tiếp, lập đi lập lại mãi như thế. Hẳn đã gần một tiếng trôi qua, khi chân Alfred bắt đầu mỏi và đã ngáp dài được vài cái, anh ta mới chịu bỏ cuộc.
“Cậu nói đúng, quả là chẳng tìm được cái nào. Hai ba vụ trẻ con mất tích trong rừng, vài vụ gia súc bị sói tấn công, một vụ tiều phu sảy chân đập đầu tử vong, nhưng chả cái nào có hơi hướm của quỷ.” Hederick chán chường thông báo. Cậu đáp lại “Vậy sao” hai tiếng vô thưởng vô phạt, tâm trạng vừa chuyển sang nhẹ nhõm vì sắp được trở về bỗng bị dội gáo nước lạnh trước câu nói tiếp theo của anh ta.
“Lạ thật đấy. Một nơi thế này lẽ ra đã thành mồi ngon cho quỷ từ lâu rồi.”
"Anh nói sao?" Alfred ngẩng lên, hoang mang tột độ.
"Cậu xem.” Hederick đưa ra bàn tay nắm lại, lần lượt xòe từng ngón tay. “Nằm giữa rừng, không có kết giới bảo hộ, đến một mống pháp sư quèn cũng không có, so với những ngôi làng vùng ven khác thì còn khá đông dân. Chỉ cần đáp ứng hai trong số ấy cũng đủ khiến lũ quỷ phải để mắt thòm thèm. Vậy làm thế nào mà đến tận lúc này, làng của cậu mới có một con mò đến?”
“Và cả,” như chực nhớ ra, anh xoè ra nốt ngón út, “quanh đây còn chẳng có Linh Mộc hộ mệnh.”
Linh Mộc là những cái cây linh thiêng mang sức mạnh ma pháp vô cùng cường đại, được gieo trồng từ quả của Thánh Mẫu Thần Mộc ngự nơi đại điện hoàng gia. Tương truyền, khi Celestia - vị nữ thần vì đem ma thuật truyền dạy cho loài người mà phạm phải luật trời - qua đời, thân xác nàng được Đất Mẹ thương xót ôm vào lòng. Một chồi non từ đó phá đất nhú lên, trong chớp mắt hoá thân cây sừng sững vĩ đại - chính là Thần Mộc của ngày nay.
Người ta bảo, dù sự trừng phạt của thần linh khiến thọ mệnh trở nên ngắn ngủi, khi tái sinh trong hình hài ngọn cây, Celestia vẫn mãi dõi theo vương quốc mà nàng và người chồng phàm trần của mình đã cùng gầy dựng. Mỗi trăm năm một lần, Thần Mộc lại đậu quả, được đích thân Hoàng Đế trao cho kẻ bề tôi tin cẩn về gieo trồng nơi lãnh địa, mọc thành Linh Mộc.
Các Linh Mộc - như Celestia trước kia - mang sức mạnh xua đuổi ma quỷ, đẩy lùi những tạo vật của bóng tối, bảo hộ con người. Những thành trì vững chắc, những phố thị sầm uất, tất cả nương vào sự che chở của Linh Mộc mà dựng xây. Đặc biệt, trong giới quý tộc, sở hữu một Linh Mộc là sự công nhận cao quý nhất họ có thể nhận được từ dòng dõi hoàng gia, khẳng định sự trường tồn và hưng thịnh của gia tộc mãi về sau.
Ân điển ấy, dĩ nhiên không đến lượt một ngôi làng nhỏ bé như Belltree.
"Chuyện đấy… tôi cũng không biết nữa. Tôi chưa nghĩ đến bao giờ.” Cậu ấp úng. “Nhưng anh nói phải, kỳ lạ thật.”
“Thôi bỏ đi, đừng nghĩ nhiều nhọc công.” Hederick xua tay. “Chỉ có thế thì vẫn chưa kết luận được gì. Biết đâu là do làng cậu thực sự tốt số cũng nên.”
Lại thế, Alfred chợt nghĩ. Anh ta lại đưa ra những gợi ý lửng lơ, để rồi phút cuối lại gạt phắt đi, còn cậu cứ như mò mẫm trong làn sương dày phủ lên những suy tính của anh.
“Alfred!” Giọng ông Bryson bỗng vang lên, từ tầng trên gọi với xuống. “Có thư cho trưởng làng này!” Ông vội vàng bước xuống cầu thang, vẻ mặt căng thẳng. Giỏ thức ăn cho bồ câu treo một bên cánh tay, đung đưa rơi vãi những hạt thóc lẫn ngô vàng ươm, tay còn lại giơ cao mà phe phẩy phong thư. “May thật! Vẫn còn ở đây. Cứ tưởng cháu về mất rồi chứ!”
“Ai gửi thế ạ?” Alfred ngạc nhiên, bước đến đón lấy lá thư.
“Còn ai vào đây nữa.” Ông khịt mũi. “Quý tử của làng ta đấy.”
Con dấu đỏ in hai ký tự E.G nổi bật trên bìa thư, có phần lem luốc. Cậu lật lại, hai chữ Edward Grimshaw nằm nơi góc trái, nét chữ từ bàn tay anh viết ra không thể lầm lẫn vào đâu, thẳng tắp, cứng cáp như người lính trong tư thế nghiêm. Nét cuối chữ “d” ngoặc lên cong vút, bên cạnh là một giọt mực rất nhỏ dây ra.
Chút vụn vặt ấy vốn dĩ không đáng để tâm, nhưng đây lại là Edward Grimshaw. Thiếu chủ Grimshaw của thường lệ sẽ lập tức vứt phong thư này đi mà viết cái khác thay vào. Nay Edward bỗng khẩn trương đến vậy, cả con dấu cũng đóng hơi lệch sang bên, như thể vừa thôi bút liền chóng vánh gửi đi, lẽ nào do anh đã biết chuyện bà Grimshaw đổ bệnh, hay tệ hơn, đã biết điều gì đang diễn ra tại Belltree.
“Chúng ta về thôi.” Cậu bảo, bàn tay trong vô thức nắm chặt khiến phong thư nhàu nhĩ, rồi lại hoảng hốt miết cho nó phẳng lại. Hederick âm thầm bước đến sau lưng cậu, ngước nhìn lá thư qua vai mà đáp “Được rồi”. Người Thợ Săn không hỏi gì, cũng không nói thêm lời nào, nhưng khi ngoái lại, Alfred chợt bắt gặp dòng suy tư đang ồ ạt chảy ẩn sau vẻ mặt thản nhiên kia, đôi mắt vàng như rực lên trong bóng tối lờ mờ.
Khó chịu thật, Alfred lại nghĩ. Cậu không quen với việc vô phương suy đoán những ý nghĩ của người khác, nỗi bất an lại kéo đến. Thà rằng anh ta huyên thuyên những lời khó nghe, vẫn hơn sự im lặng đầy toan tính này.
Nhưng trước hết, cậu đưa mắt trở lại lá thư, vẫn còn việc khác đáng lo ngại hơn. Tuy chẳng rõ anh ấy đã viết những gì, nhưng e rằng một khi đọc xong nó, ông Grimshaw sẽ không mấy làm vui vẻ đâu.
Bình luận
Chưa có bình luận