Vết sẹo
Tôi đưa Doris đến phòng làm việc của mình để nghỉ ngơi, Tylar cũng mau chóng trở về bằng thang máy riêng trong phòng cậu. Tôi không biết cậu đã rẽ hướng từ bao giờ, nhưng đến lúc tôi quay đầu lại, cậu đã không còn ở phía sau nữa. Tôi đến cửa chính của tầng hầm thứ bảy, bắt gặp trợ lý vẫn đang đợi mình ở đó. Ông ta nói rằng hãy lập tức rời đi để kỹ thuật viên khởi động lại hệ thống an ninh.
Tôi quan sát thấy thái độ của ông ta không khác mấy so với thường ngày, cũng như Tylar, trông ông ta chẳng có vẻ gì là lo lắng hay hoảng hốt trước tình huống đang xảy ra trước mắt. Một gã người Anh có vẻ ngoài nhỏ con và hơi chậm chạp, lúc nào cũng ôm khư khư Synth Pad[1] trong tay nhưng chưa một lần thực hiện đúng trách nhiệm của mình. Tylar gọi ông ta là Luke – một cái tên không thể ngắn gọn hơn, và hình như còn có chút quen thuộc. Hẳn là tôi đã từng nghe thấy cái tên như vậy ở đâu đó nhưng không tài nào nhớ ra nổi.
Luke là một gã trợ lý nhát gan. Dù là lần đầu tiên gặp nhau ở hội trường hay lần thứ hai chạm mặt ở phòng giam của Doris, ông ta đều thể hiện như thể mình là một kẻ khờ khạo chẳng đáng tin. Tôi không biết dựa vào đâu để Richard Campbell tin tưởng “giao lại” Tylar cho một gã kỳ lạ như thế, nhưng có vẻ cậu ấy khá hài lòng với tên trợ lý này.
“Tôi biết Doris sẽ không làm gì quá phận, nhưng sẽ tốt hơn nếu cậu đồng ý ký vào cam kết đảm bảo an toàn.” Ông ta đột ngột lên tiếng, giọng không chút cảm xúc.
Một cam kết đảm bảo an toàn để quy toàn bộ trách nhiệm cho người “giám hộ” nếu chẳng may xảy ra bất trắc. Tôi đã từng nghe về nó trước đây. Một số đồng nghiệp chịu trách nhiệm quản lý các bản sao đặc biệt ở tầng bảy đều buộc phải ký vào bản cam kết, nhưng nó không hẳn là một thủ tục đảm bảo thật sự, mà chỉ đơn giản là cách để đội ngũ giám sát thoái thác trách nhiệm cho một cá nhân cụ thể.
Hiển nhiên, tính chất của hai vấn đề này không hoàn toàn giống nhau. Họ giám sát bản sao bằng cách có mặt trực tiếp tại các phòng giam thép theo khung giờ chỉ định, trong khi tôi lại làm trái nội quy vốn có là đưa Doris ra bên ngoài. Dù đều phải chịu khiển trách và thậm chí là trừng phạt nếu để xảy ra tình huống nguy cấp, nhưng có vẻ trách nhiệm của tôi nặng nề hơn rất nhiều.
Tôi cúi xuống nhìn Doris đang thiếp đi trong vòng tay mình, rồi lại quay sang nhìn trợ lý. “Ngay bây giờ ạ?”
“Ngày mai cũng được.” Trợ lý Luke nói. “Tôi nghĩ Viện trưởng sẽ không để Doris quay lại tầng bảy đâu…”
Có lẽ, Viện trưởng mà ông ta đang nhắc đến là Tylar. Cậu từng nói, bất cứ khi nào Richard Campbell vắng mặt thì khi đó đều là cơ hội tốt để trả tự do cho Doris. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ ánh mắt tự tin của cậu, nhưng giờ đây, khi đứng trước thực tế đầy hiểm nguy và cậu bất chợt trở nên khác thường, tôi chẳng biết mình có nên tiếp tục trông chờ hay phải hoài nghi về cái tương lai không rõ ràng ấy. Mọi chuyện dường như xảy đến quá nhanh, mà có lẽ đến cả tôi cũng không biết mình nên làm gì để chuẩn bị cho các bước ngoặt sắp sửa xảy đến.
Cậu đã làm tất cả điều cần thiết để đảm bảo mọi thứ nằm trong tầm kiểm soát. Cậu nói rằng, kế hoạch chắc chắn sẽ thành công bởi cậu đã ấp ủ nó từ khi vẫn còn là một đứa trẻ chỉ mới đâu đó tầm mười mấy tuổi – khi bản thân trải qua cảm giác mất đi người bạn đầu đời. Dẫu cho tôi có trách móc cậu thế nào đi nữa, tôi biết cậu chưa bao giờ do dự về những quyết định của mình, và cũng chưa một lần hối hận hay lung lay. Tôi biết rõ con người cậu vốn là như vậy.
Tôi lại nhìn sang phía trợ lý Luke. Ông ta vẫn giữ thái độ bình thản ban đầu, không thúc giục tôi ký vào bản cam kết, cũng không tỏ vẻ xa cách tôi như những đồng nghiệp khác. Có điều gì đó trong thái độ và cả cái cách ông ta nhắc đến Doris khiến tôi thấy lạ lẫm. Đó không hẳn là sự quan tâm rõ rệt, nhưng cũng không hoàn toàn thờ ơ. Dường như ẩn sau đó là một sự tôn trọng ngấm ngầm, nhưng không đơn giản chỉ vì Doris là bạn của Tylar, mà hình như còn vì lý do sâu xa hơn cả thế.
“Chú có biết chuyện gì đã xảy ra không ạ?”
“Không biết,” Trợ lý khẽ lắc đầu. “Đột nhiên hệ thống thông báo rằng Doris đang gặp nguy hiểm, khi chúng tôi đến nơi thì cậu ấy đã thoát ra rồi.”
Đây hẳn là một tình huống cực kỳ vô lý, nhưng sự thật là nó đã xảy ra. Cánh cửa thép được thiết kế nhằm mục đích chịu lực tác động lại bị phá hủy bởi chính “con cừu” được cho là bản lỗi dường như có thể trở thành trò đùa trong mắt những kẻ không chứng kiến.
“Người tên Thomas đó là ai vậy ạ? Cháu thấy tên rất quen nhưng hình như cháu chưa gặp ở đây thì phải?”
“À, đó là người đã phản đối cậu đến làm việc ở khu G.” Ông ta ngừng lại một chút, rồi nói tiếp. “Gã đó từng đến tang lễ của bố cậu, nhưng quan hệ giữa hai người họ có vẻ không tốt lắm…”
Tôi trợn tròn mắt nhìn trợ lý, gần như không thể tin vào tai mình. Ngày hôm ấy, sau khi gây ra hỗn loạn đến mức nhân viên cấp cao phải lên tiếng can thiệp, gã đàn ông đó đã bị khống chế đến phòng giam. Vì Tylar không có thẩm quyền xử lý các cá nhân vi phạm quy tắc của tổ chức nên phía an ninh đã giam giữ ông ta trong khu vực tách biệt và chờ đến khi Richard Campbell quay lại để đưa ra phán quyết thỏa đáng. Nếu ông ta cố ý thoát ra ngoài và gây nguy hiểm đến những cá nhân có mặt trong trụ sở, bộ phận an ninh sẽ không tránh khỏi việc bị quy trách nhiệm. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra nếu một nhà nghiên cứu chưa nhận hình phạt cố tình tiếp cận các bản sao trong khu vực đặc biệt, nhưng có lẽ Tylar sẽ không chịu ở yên cho đến khi Viện trưởng trở về.
“Quan hệ không tốt mà cũng đến ạ?” Tôi nói với vẻ ngạc nhiên. “Cháu cứ nghĩ… con người không ai làm thế cả.”
“Có lẽ phải có mục đích thì mới làm vậy nhỉ?” Trợ lý Luke nhìn tôi và giải thích. “Tang lễ năm ấy là lần duy nhất Viện trưởng cho phép các nhân viên trở vào đất liền, vậy nên dù quan hệ giữa các bên có tốt hay không thì họ cũng buộc phải tận dụng cơ hội đó.”
Câu nói của ông ấy khiến tôi thấy khó chịu hơn là bất ngờ, dù đâu đó trong suy nghĩ, tôi đã luôn đoán được sự thật tàn nhẫn này. Có lẽ không phải đồng nghiệp nào cũng đến tang lễ để bày tỏ sự tiếc thương, họ đến vì một cơ hội được tạm thời rời khỏi trụ sở. Nói không ngoa nếu gọi tang lễ năm ấy là một sự kiện thông hành, khi mọi người được phép rời đi ngay cả khi họ vốn dĩ không được trao cho đặc quyền đó.
Trợ lý Luke không có ý định tiếp tục cuộc trò chuyện. Tôi thấy ông ấy khởi động Synth Pad và thao tác nhanh trên một số tác vụ. Tôi siết nhẹ cánh tay giữ quanh người Doris như để tự trấn an bản thân. Cuộc đối thoại vừa rồi khiến tôi cảm thấy nặng nề hơn mức cần thiết. Những điều Luke nói có thể là sự thật, nhưng cũng có thể chỉ đơn giản là cách nhìn nhận của riêng ông ta. Tất nhiên tôi cũng không tránh khỏi việc bị dao động bởi những lời lẽ đó, nhưng câu chuyện này đã trôi qua được rất nhiều năm, có lẽ đã đến lúc phải để nó chìm vào quên lãng thay vì nhắc lại.
Bẵng đi một lúc, trợ lý Luke mới tạm tắt màn hình và ra hiệu cho tôi hãy ra ngoài trước. Thang máy dừng lại ở tầng số bảy của khu G, vài nhân viên an ninh đã trở lại bàn trực và nhìn về phía chúng tôi bằng ánh mắt ngạc nhiên. Không khí trên hành lang lạnh lẽo đến khó chịu, dù nhiệt độ thực tế không có gì thay đổi. Tôi có cảm giác hai tay mình khẽ run, chẳng biết vì cảm giác lạnh bất thường hay vì sợ hãi trước ánh mắt soi xét của những con người đối diện. Tôi không biết họ đang thật sự nghĩ gì trong đầu. Có thể là họ thấy bất mãn khi một “con cừu” vốn phải bị giam giữ như Doris lại có thể ngang nhiên được đưa đến khu vực cấp cao, hoặc cũng có thể là họ đang bực bội khi tôi – một người mới, một kẻ “ngoại lai” – lại có thể hành động vượt quá những quy tắc vốn có của nơi này.
Dãy hành lang kéo dài phủ một màu kim loại xám xịt, cùng ánh sáng từ các dãy đèn trần phản chiếu lên nền gạch khô khốc khiến bầu không khí càng trở nên nghẹt thở. Tôi cố gắng không bị phân tâm bởi những vệt máu đã khô lại trên tay Doris, cũng vờ như không nhìn thấy những ánh mắt đang dõi theo mình. Trợ lý Luke theo sau chúng tôi, vừa đến nơi thì nhanh chóng rút ra một tấm thẻ đen được thiết kế hoa văn kỳ lạ đưa cho đội trưởng của nhóm an ninh đó.
“Hãy hỗ trợ Andrey khi cậu ấy cần và đảm bảo cho HRY-01 được an toàn trong suốt thời gian dưỡng thương ở đây.”
Đội trưởng nhận lấy tấm thẻ từ tay Luke nhưng trông có vẻ không mấy hài lòng. Một vài người liếc sang tôi và Doris, khẽ chau mày một cái đầy khó chịu nhưng không ai thắc mắc. Thấy tình hình gần như không khả quan, trợ lý hắng giọng rồi nói tiếp.
“Đây là lệnh của Viện trưởng.”
Lúc này, các nhân viên an ninh mới đồng loạt đứng lên và đáp lại trợ lý bằng thái độ nghiêm túc. “Nhận lệnh.”
Tôi đưa Doris về phòng, còn trợ lý Luke thì đến gặp Tylar. Trước khi đi, ông ta đã hướng dẫn tôi một số cách xử lý vết thương cho Doris, và dặn dò tôi đừng quá lo lắng vì mọi chuyện đã ổn. Một nhân viên an ninh được cử theo sau để giúp tôi mở khóa cửa và chuẩn bị vài vật dụng sơ cứu đơn giản, trông anh ta chẳng mấy hài lòng nhưng cũng không than vãn gì thêm.
Tôi nghĩ mình đã vô tình gây hiềm khích với rất nhiều đồng nghiệp. Dù hai bên không thể làm gì để gây khó dễ cho nhau, nhưng cái cảm giác phải sống trong ánh mắt ghét bỏ của người khác không dễ chịu chút nào. Ngay cả khi tôi đã cố phớt lờ thì trong lòng vẫn luôn tồn tại một cảm giác nặng nề khó tả. Như thể, sau khi cánh cửa này khép lại, bọn họ vẫn đang đứng đâu đó ngoài kia, sẵn sàng chờ đợi để nhìn thấy tôi phạm lỗi. Thật mệt mỏi. Tôi chẳng biết mình có thể chịu đựng điều này thêm bao lâu, khi mọi thứ gần như đã vượt quá giới hạn.
Tôi đặt Doris nằm xuống giường, cố gắng giữ anh ở tư thế thoải mái nhất có thể. Một tay giữ nhẹ đầu, kê gối cao để không gây áp lực lên vết thương. Một tay chỉnh lại chăn, kéo qua người để anh không thấy lạnh. Trông anh lúc này thật yên bình, như thể những đau đớn, hỗn loạn lẫn mệt mỏi đều đã biến mất. Nhưng tôi hiểu, ngay cả trong giấc ngủ tưởng chừng như bình lặng ấy, anh vẫn luôn bị ám ảnh bởi chúng.
Ác mộng.
Ban đầu chỉ là một cái nhíu mày thật khẽ. Rồi, ngón tay anh khẽ run. Một tiếng thở dốc nghèn nghẹn thoát ra khỏi cổ họng như đang cố thoát khỏi thứ gì đó vô hình. Toàn thân anh cứng đờ trong chốc lát. Tôi vội nắm lấy tay anh, siết nhẹ. Lòng bàn tay anh lạnh ngắt, khớp ngón căng cứng như đang chống chọi với nỗi sợ hãi.
“Để anh ấy ngủ như thế này có sao không nhỉ?”
Tôi vô thức nhìn xuống cánh tay anh, nơi vết thương vẫn còn đỏ thẫm dù máu đã ngừng chảy. Vết thương sâu hoắm gần như có thể thấy được lớp thịt bên trong, có lẽ nó sẽ để lại một vết sẹo lớn. Tôi sợ anh thức giấc, nhưng nếu không xử lý vết thương sớm thì khả năng cao sẽ dễ bị nhiễm trùng.
Tôi vẫn nắm lấy tay Doris, cảm nhận từng đợt run rẩy nhẹ dần khi anh dần thoát khỏi cơn ác mộng. Những tiếng thở dốc nghèn nghẹn chậm rãi lắng xuống, thay vào đó là hơi thở đều đặn hơn. Cơ thể anh dần thả lỏng, nhưng vẻ mặt vẫn còn hoảng loạn khi anh từ từ mở mắt ra. Anh nhìn tôi một lúc, đôi mắt vẫn chưa tỉnh táo hoàn toàn, rồi từ từ nhắm lại như đang cố xua đi cơn ác mộng vẫn còn đeo bám tâm trí.
“Doris...” Tôi nhẹ nhàng gọi tên anh.
Anh thoáng giật mình, như thể không nhận ra tôi trong phút chốc. Nhưng hình như cảm nhận được sự an ủi trong cái siết tay nhẹ nhàng của tôi, anh khẽ thở dài một hơi và bắt đầu thả lỏng. Một khoảng lặng kéo dài mau chóng bủa vây. Anh không nói gì, chỉ nhắm mắt lại như muốn tìm kiếm chút bình yên trong khoảnh khắc ngắn ngủi này.
Tôi cẩn thận điều chỉnh lại chăn, kéo lên vừa đủ để giữ ấm, tránh làm động đến vết thương. Cơ thể anh vẫn còn rất yếu, vết thương trên tay cũng chưa được băng bó cẩn thận. Tôi lưỡng lự một lúc, rồi nhẹ nhàng rút tay mình ra khỏi tay anh. Ngay khoảnh khắc mất đi sự tiếp xúc, đôi mắt Doris chợt mở to, một tia cảnh giác vụt qua ngay tức khắc rồi nhanh chóng biến mất khi nhận ra tôi vẫn còn bên cạnh. Anh tiếp tục giữ im lặng và nhìn tôi một lát, rồi từ từ nhắm mắt lại lần nữa, nhưng lần này trông anh dường như đã bình tĩnh hơn.
Không nghĩ nhiều, tôi đứng dậy khỏi giường, đến lục tìm trong ngăn tủ quần áo, lấy ra một bộ đồ sạch để Doris thay tạm. Nhưng khi vừa bước tới bên cạnh, tôi chợt khựng lại. Doris đã tỉnh táo hoàn toàn.
“Anh tỉnh rồi ạ?” Tôi cất tiếng, giọng khàn khàn vì căng thẳng.
Doris không trả lời ngay, chỉ nhắm hờ mắt như để lấy thêm chút sức lực. Một lúc sau, anh mới khẽ gật đầu. Tôi đi đến tủ đầu giường, rót cho anh một cốc nước còn lại trong bình từ đêm qua để cổ họng đỡ khô khốc. Anh hớp một ngụm nhỏ, ánh mắt đăm chiêu nhìn mặt nước gợn nhẹ trong cốc như đang cố hàn gắn những mảnh ký ức rời rạc.
Tôi muốn hỏi anh có còn đau không nhưng lại chần chừ. Có lẽ lúc này anh không muốn nghe những câu hỏi vô nghĩa như vậy. Thế nên, tôi chỉ có thể lặng lẽ quan sát, chờ đợi anh mở lời trước. Cuối cùng, Doris đặt cốc nước xuống đầu tủ, đôi mắt màu đại dương sâu thẳm thoáng nhìn về phía tôi.
Tôi siết nhẹ hai bàn tay để ngăn chúng thôi run rẩy. Cảm giác lo lắng cứ quấn lấy khiến tôi chẳng biết phải làm gì ngoài việc ngồi im như một bức tượng vô hồn. Doris khẽ nghiêng đầu, môi mấp máy như muốn nói gì đó, nhưng lại chẳng có âm thanh nào phát ra. Giữa chúng tôi chỉ còn tiếng thở đều đặn của anh, cùng tiếng tim tôi đập dồn dập một cách khó hiểu.
“Doris, thay tạm bộ này đi. Đồ cũ của anh dính đầy máu rồi.” Giọng tôi vang lên, không quá lớn nhưng vẫn đủ để phá tan bầu không khí ngột ngạt giữa cả hai.
Tôi đặt bộ đồ xuống cạnh anh, cẩn thận đỡ lấy cánh tay không bị thương để giúp anh ngồi dậy. Ánh mắt anh vẫn chăm chú quan sát tôi, như thể muốn nói gì đó nhưng không thốt nên lời. Tôi không dám nhìn thẳng vào mắt anh. Có một cảm giác kỳ lạ nào đó đang dần trở nên phức tạp mà tôi không cách nào lý giải nổi. Ánh nhìn ấy khiến tôi bồn chồn đến mức phải giả vờ bận rộn – chỉnh lại góc chăn, với tay lấy cốc nước trên đầu tủ dù biết rằng anh chẳng còn khát – để không phải đối diện với anh thêm lần nào nữa.
“Em sẽ đi lấy băng gạc để xử lý vết thương cho anh, nếu để lâu sẽ nhiễm trùng mất.”
Doris khẽ gật đầu, ánh mắt lơ đãng như không thực sự nghe rõ những gì tôi vừa nói.
Tôi trở ra bàn làm việc bên ngoài, lấy những dụng cụ sơ cứu đơn giản mà nhân viên an ninh đã chuẩn bị trước đó. Ngón tay run rẩy cầm lấy băng gạc và dung dịch sát trùng, tôi cố trấn tĩnh bản thân để không đánh rơi bất cứ thứ gì xuống đất. Tôi không biết vì sao trợ lý lại không đề xuất can thiệp tiểu phẫu để khâu miệng vết thương, nhưng nếu chỉ băng bó sơ sài thế này thì tình trạng cũng chẳng khả quan hơn là mấy.
Khi quay lại giường, tôi thấy Doris vẫn giữ nguyên tư thế ngồi, và đã thay quần áo xong xuôi. Bộ quần áo rộng thùng thình gần như che phủ hết dáng người gầy gò của anh. Nhưng chính sự im lặng ấy mới là thứ khiến tôi bận tâm hơn tất thảy. Không có bất kỳ lời than vãn hay biểu hiện đau đớn nào được anh thể hiện ra, như thể vết thương sâu hoắm kia chẳng hề tồn tại.
Tôi mím chặt môi, chậm rãi bước đến ngồi xuống bên giường. “Anh... thấy thế nào rồi?”
Doris khẽ nghiêng đầu, ánh mắt lướt qua tôi trong thoáng chốc. Một nụ cười thấp thoáng trên môi, nhưng giọng nói lại nhẹ bẫng đến mức gần như hòa lẫn vào không khí. “Không sao cả.”
Không sao ư? Đột nhiên tôi muốn phản bác, muốn nói rằng những gì anh đang chịu đựng không hề bình thường một chút nào. Nhưng cuối cùng, tôi chỉ có thể siết chặt cuộn băng gạc trong tay và tự nhủ mình nên giữ bình tĩnh.
“Không cần phải làm vậy đâu. Nó sẽ tự lành lại thôi.” Anh nói tiếp.
Tôi sững lại, ngước nhìn anh. Doris vẫn giữ nguyên biểu cảm hờ hững như thể vết thương nghiêm trọng trên người chẳng phải chuyện gì to tát. “Làm sao mà tự lành lại được chứ?” Một câu hỏi bật ra khỏi cổ họng, nhỏ đến mức gần như thì thầm.
Doris không đáp, chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt sâu thẳm như đại dương tĩnh lặng. Trái lại, tôi không thể đọc được bất cứ suy nghĩ nào trong đấy. Tôi cố gắng kìm lại cảm giác chua chát đang cuộn trào trong lòng. “Dù anh có muốn hay không thì em vẫn sẽ xử lý vết thương này. Nếu không, anh sẽ bị đau đấy.”
“Đau á?” Doris thoáng trầm ngâm, ánh nhìn lơ đãng về phía trước như đang hồi tưởng điều gì đó xa xăm. “Tớ quen rồi.”
“Quen rồi không có nghĩa là không đau nữa.”
Tôi không chờ anh phản đối thêm, chỉ lặng lẽ cúi xuống mở lọ dung dịch sát trùng, thấm vào bông gạc rồi cẩn thận áp lên vết thương. Doris hơi khựng lại đôi chút khi cồn chạm vào da nhưng vẫn không nói gì. Không một tiếng rên, không một cái chau mày, như thể anh đã thật sự vô cảm với nỗi đau.
Sự im lặng kéo dài, nặng nề đến mức tôi cảm thấy khó thở. Tôi nuốt khan, cố giữ tay mình không run rẩy khi tiếp tục lau sạch miệng vết thương. Có một lớp máu khô bám chặt trên da, tôi phải chà xát nhiều lần mới tẩy đi hết nhưng Doris vẫn không phản ứng gì ngoài việc ngồi yên và quan sát kỹ từng hành động.
“Có lẽ nó sẽ để lại sẹo cả đời đấy ạ.” Tôi nói trong lúc cố định hai đầu băng gạc, giọng khẽ run.
Tôi tự hỏi liệu nỗi đau mà Doris âm thầm chịu đựng có giống với những gì tôi đang cảm thấy hay không. Tôi cứ nghĩ đến những vết thương không thể chữa lành, những dấu tích tồn đọng vĩnh hằng trên cơ thể. Bởi chúng không chỉ đơn giản là những vết sẹo mà còn là ký ức, là nỗi đau. Nhưng Doris lại chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt bình thản đến lạ lùng, hệt như chẳng còn thứ gì có thể khiến anh bận tâm đến nữa.
“Rồi nó sẽ biến mất thôi. Trước đây tớ có một vết sẹo ở chỗ này,” Anh chỉ tay lên trán, vẽ một đường từ trên chân mày xuống đuôi mắt phải. “Nhưng một ngày nọ, khi tớ tỉnh lại thì nó đã không còn nữa.”
Tôi tròn mắt ngạc nhiên. “Có chuyện đó thật ạ?”
Doris không trả lời ngay, chỉ nhìn tôi một lúc lâu, như thể đang cân nhắc xem liệu có nên tiếp tục câu chuyện này hay không. Tôi thấy anh hơi đảo mắt, rồi dừng lại ở một điểm nào đó vô định trong căn phòng như muốn tránh né ánh nhìn của tôi. Chỉ mới vài giây trôi qua nhưng tôi cảm giác như thời gian đã hoàn toàn ngừng lại. Rồi anh thoáng nhướng mày, một nụ cười nhạt thoắt hiện trên môi.
“Ừ. Đó là lúc tớ nhận ra mình đã không còn là Henry nữa.”
Tôi sững người trong thoáng chốc, cảm giác có một cơn rùng mình nhẹ chạy dọc sống lưng. Tôi không thể nói rõ cảm xúc của mình ngay thời điểm ấy. Dường như không hẳn là tức giận, cũng không hẳn là ghét bỏ, mà chỉ đơn giản là hoang mang. Qua lời Tylar, tôi đã dần quen với cái tên Doris – một “con cừu” bị buộc phải tái sinh trong hình hài y hệt nhưng không phải Henry – đến mức gần như quên mất anh “đã từng là” gã đàn ông đó.
Tôi đã nghĩ anh cũng giống như tôi, rằng chúng tôi đều sẽ giả vờ quên đi để mọi chuyện diễn ra một cách tốt đẹp. Nhưng ngay lúc này, chính anh lại là người xé toạc lớp vỏ bọc giả tạo ấy và buộc tôi phải đối diện với sự thật mà mình đã vờ chẳng quan tâm. Anh kéo tôi trở về với những ký ức tôi cố tình không nghĩ đến – mối quan hệ giữa “anh” và bố tôi, sự tồn tại của anh trước khi trở thành Doris và cả những cảm xúc phức tạp đến mức tôi chẳng biết phải đặt tên là gì.
Doris nhìn xuống vết thương đã được băng bó. Đôi tay anh khẽ nắm chặt, rồi lại thả lỏng, như thể chấp nhận bản thân đã thật sự thay đổi và chẳng bao giờ có thể trở về là mình của trước kia được nữa.
Anh khẽ cười, nhưng tiếng cười ấy không hề vang lên, chỉ tựa một tiếng thở dài lướt nhẹ qua môi. “Nếu nó không biến mất thì có lẽ vết sẹo chỉ thay đổi vị trí thôi nhỉ?”
Lời anh nói nghe thật nhẹ nhàng, nhưng dường như lại có một sức nặng vô hình không thể diễn tả được. Mắt tôi không rời khỏi anh, nhưng lòng tôi lại trở nên trống rỗng, như thể cảm xúc kỳ lạ trong tôi đang dần trỗi dậy và nuốt chửng mọi thứ vào khoảng không mờ mịt. Tôi không biết phải nói gì, càng không biết có nên an ủi anh hay không. Một phần nào đó trong tôi đang thôi thúc mình hãy tiến tới, hãy nắm lấy tay anh và bảo rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn. Nhưng một phần khác – cái phần gần như tỉnh táo nhất – đã cho tôi biết mình không nên làm vậy.
Hơn ai hết, tôi hiểu rõ mối quan hệ thật sự giữa chúng tôi là gì. Và thú thật, ngay từ đầu tôi đã chẳng ưa anh. Đó là khi tôi vẫn còn hình dung về anh dưới dáng vẻ của một tên tội phạm khét tiếng thay vì một “con cừu” đáng thương không có quyền tự quyết cho số phận của mình. Cảm giác ấy giờ đây vẫn chưa thể phai mờ, dù tôi đã cố gắng thay đổi nhiều nhất cách nhìn nhận về anh. Đáng tiếc thay, mỗi lần nghĩ đến Henry – tình nhân của bố mình – tôi lại không tài nào thoát khỏi cái hình ảnh ban đầu mà tôi đã khắc sâu vào tâm trí.
Tôi đoán là mối quan hệ giữa tôi và anh luôn được thêu dệt bằng những sợi dây vô hình mà tôi không cách nào tháo gỡ. Anh là bản sao của người đàn ông mà tôi chưa từng gặp mặt – cũng là một phần quan trọng trong cuộc đời bố tôi. Và rồi, chính cái sự thật đầy trớ trêu ấy đã khiến tôi cảm thấy khó chịu. Anh có thể mang hình hài giống Henry, nhưng bản chất của anh lại khác biệt hoàn toàn (ai nấy đều nói như vậy). Có thể, anh không phải là kẻ đáng bị ghét bỏ, nhưng tôi cũng khó thể ngừng nhìn anh qua ánh mắt căm ghét mà tôi đã áp đặt lên Henry từ thuở thiếu thời.
Nhưng rồi, cảm giác ấy lại bị nén xuống khi tôi nghĩ đến số phận của anh – một người không có quyền tự quyết, một “con cừu” không bao giờ có thể thoát khỏi định mệnh ngắn ngủi đã được an bài. Tôi chợt nhận ra, có lẽ chúng tôi không khác nhau là mấy, cả hai đều là những con người bị trói buộc bởi “niềm tin” của người khác, chỉ là tôi vẫn còn giữ được hy vọng và sự tự do mà ngay từ đầu anh đã không có.
Anh cúi đầu, ánh mắt lặng lẽ đáp trên những đầu ngón tay, nơi vết thương đã được băng bó cẩn thận. Tôi không biết đó là lòng trắc ẩn, là thương hại hay chỉ đơn thuần là một sự đồng cảm méo mó, nhưng có thứ gì đó trong tôi đang nóng lòng muốn đập tan sự im lặng đầy bức bối này.
“Cậu… vẫn luôn là người tốt nhất…” Doris bất chợt nói, giọng anh nhẹ nhàng như gió thoảng.
“Sao ạ?” Tôi hỏi lại, gần như không thể tin vào tai mình.
Doris khẽ lắc đầu.
Sự im lặng giữa chúng tôi càng trở nên nặng nề hơn sau lời hồi đáp chẳng có âm thanh đó, như thể cả căn phòng đang dần thu hẹp lại và buộc tôi phải đối mặt với thứ cảm xúc kỳ lạ đang dâng trào trong lòng. Tôi không biết cái lắc đầu ấy có ý nghĩa gì. Là phủ nhận sau khi nhầm lẫn? Hay chỉ đơn giản là anh không muốn tôi đào sâu thêm vào những lời lẽ vừa được thốt ra?
“Anh nghỉ ngơi đi ạ. Em nằm ngay đây thôi, có gì thì gọi em.” Và tôi đã quyết định kết thúc cuộc trò chuyện gần như đi vào ngõ cụt bằng một câu nói như thế.
Doris lặng lẽ nằm xuống giường, hơi nghiêng người về một phía, kéo chăn phủ qua vai. Tôi nhìn anh một lúc, rồi vơ lấy chiếc gối đặt xuống sàn cạnh giường. Không gian xung quanh tĩnh lặng đến mức tôi có thể nghe thấy cả tiếng cọ xát khẽ khàng của chăn vải khi anh ấy trở mình.
Ba giờ sáng. Không dễ mà ngủ lại ngay được. Tôi nhắm mắt, rồi lại mở ra. Cơn buồn ngủ vẫn chưa chịu kéo đến, dù cơ thể tôi đã mệt mỏi rã rời. Tâm trí tôi cứ mãi suy nghĩ về những gì vừa xảy đến, về tương lai không rõ ràng và cả những bí mật ẩn giấu trong Viện nghiên cứu. Tôi khẽ siết chặt tay, hơi lạnh từ sàn nhà thấm qua lớp áo, len vào da thịt càng làm nỗi bất an trong lòng cô đọng nặng nề hơn.
Tôi nhắm mắt lại, cố hình dung về bố của những tháng ngày hoàng kim. Hình ảnh ông hiện lên trong tâm trí rõ ràng đến mức tưởng chừng chỉ cần vươn tay ra là có thể chạm tới. Tôi đã từng xem bố như một tượng đài, nhưng mọi thứ dần vỡ vụn khi tôi nhận ra mức độ nghiêm trọng của con đường mà ông đang đi.
Khi còn nhỏ, tôi đã nghĩ bố là một người vĩ đại. Một kẻ tiên phong dám đối đầu với những giới hạn của khoa học để khai phá một tương lai mới. Mọi thành tựu của ông, mọi lý tưởng mà ông theo đuổi, tôi đều nhìn chúng bằng sự kính phục thuần khiết của một đứa trẻ.
Những con người bị tước đi danh tính. Những sinh mạng bị kiểm soát dưới danh nghĩa của “sự tiến bộ”. Những bản sao được tạo ra không phải để sống, mà là để phục tùng. Tôi đã tận mắt chứng kiến hậu quả của những điều đó. Và tôi biết, không có bất kỳ lý do chính đáng nào có thể biện hộ cho những lỗi lầm ông đã gây ra.
Bố có thể tự thuyết phục mình rằng tất cả chỉ là vì một mục tiêu cao cả. Nhưng tôi không thể. Tôi không thể lờ đi sự thật rằng những “con cừu” đó chưa từng có quyền tự quyết cho số phận của mình. Và dù lý trí đã đưa ra quyết định rõ ràng, tôi vẫn không thể dễ dàng vứt bỏ những gì mình đã cảm nhận suốt bao năm qua. Đó là điều đáng sợ nhất – sự mâu thuẫn giữa niềm tin đã mục ruỗng và tình thân không thể dứt bỏ hoàn toàn.
Tôi biết mình không nên đứng về phía bố, nhưng tôi cũng không thể phủ nhận rằng bản thân chưa một lần ngừng kính trọng ông, đã từng nhìn ông bằng ánh mắt tràn đầy ngưỡng mộ. Tôi nhớ những lần bố dạy tôi cách đọc những tài liệu khoa học đầu tiên, đôi mắt tôi sáng lên đầy phấn khích mỗi khi thảo luận về những điều mà thế giới chưa từng biết đến. Tôi nhớ những buổi chiều muộn, khi tôi còn nhỏ, bố xoa đầu tôi và bảo rằng một ngày nào đó tôi nhất định sẽ trở thành niềm tự hào của ông. Những ký ức tưởng chừng như tươi đẹp ấy, giờ đây đã trở thành dĩ vãng nhạt nhòa mà đến cả tôi cũng không chắc là mình có còn nhớ rõ hay không.
Có lẽ, ngay chính khoảnh khắc bố quay lưng lại với đạo đức con người, bố đã không còn là người hùng bất khả chiến bại trong cuộc đời của riêng tôi nữa.
_____
[1] Synth Pad (hư cấu): Bảng điều khiển thông minh cầm tay đa chức năng, kết nối với mọi hệ thống trong Viện nghiên cứu.
Bình luận
Chưa có bình luận