Tôi chưa từng sống qua cuộc đời của bố, nhưng đôi lúc, tôi thấy mình như hiểu rất rõ.
Tôi sẽ bảo vệ các cậu
Tôi cảm thấy lo lắng trước lời dặn dò đầy khẩn thiết của cậu. Tôi biết bố luôn cất giữ những cuốn sổ đó một cách cẩn thận, nhưng bố đã để lại nó trong tủ sắt cho tôi. “Con sẽ hiểu, khi ngày đó đến.” Bố đã viết dòng này trên một tờ giấy và đặt cùng chỗ với nhật ký để chắc chắn là tôi có thể đọc được.
Ngôi nhà ở Edinburgh mà chúng tôi từng sống vẫn đang cất giữ nó, trong phòng làm việc đã sớm đóng bụi, bên trong chiếc tủ sắt được khóa chốt sơ sài. Sau khi trở về nhà từ tang lễ của bố, tôi đã thử tìm hết những kỷ vật còn sót lại. Thế nhưng, mọi thứ đều đã được bố mang đi hết, ngoại trừ hai cuốn sổ viết tay kỳ lạ ấy. Bao nhiêu năm trôi qua, chúng vẫn nằm im trong tủ sắt như chưa từng có ai đả động đến.
Tôi đã lén đọc thử cuốn sổ viết bằng tiếng Anh khi đâu đó tầm mười mấy tuổi, trong một lần gục ngã trước cơn tò mò. Nội dung chủ yếu xoay quanh các thí nghiệm nhân bản, có cả thành công lẫn thất bại. Những dòng chữ được viết rõ ràng, ghi lại hầu hết từng giai đoạn trong quá trình thí nghiệm, kèm theo đó là những thuật ngữ khoa học tôi chưa từng nghe qua. Hình như còn có cả những công thức về gen và các hình vẽ sơ đồ vô cùng phức tạp.
Còn cuốn sổ tiếng Phần Lan được viết bởi một nét chữ khác, nguệch ngoạc và gấp rút hơn. Vì cách trang trí bìa sổ khá giống nhau nên tôi nghĩ nội dung không khác mấy, chỉ lật thử vài trang rồi cất lại chỗ cũ trước khi bị phát hiện. Tôi có thể đoán được chủ nhân của cuốn sổ tay này. Người Phần Lan duy nhất bố tôi tin tưởng là Henry. Nhưng cũng thật kỳ lạ khi bố đã để nó lại cho tôi – một người chẳng liên quan, thay vì mang đến đất nước kia để trả lại cho người thân của gã đàn ông đó.
Tiêu hủy? Vì cớ gì? Lời dặn dò của Tylar khiến tôi thắc mắc. Việc bố để lại hai cuốn nhật ký kỳ lạ cho tôi, kèm theo lời nhắn nhủ, hẳn phải nhằm mục đích gì đó. Bố muốn tôi phải làm gì với chúng? Hay chỉ đơn giản là vì trân trọng chúng nên bố muốn tôi sẽ thay mình giữ gìn chúng cẩn thận?
“Tại sao chứ? Tôi không hiểu.” Tôi nhanh chóng hỏi lại.
Cậu vẫn nhìn tôi, ánh mắt chợt trở nên nghiêm túc. “Đi đến nơi này với tớ, ở đây không tiện.”
Không đợi tôi đáp lời, cậu bước nhanh về trước với vẻ gấp gáp. Tôi lặng người vài giây trước khi vội vã bám theo sau. Chỉ đến khi tới khúc ngoặt của hành lang, cậu mới nói sẽ đưa tôi đến phòng làm việc của bố tôi ngày trước.
G7.09.
Căn phòng đó. Tôi không biết nó trông như thế nào. Nhưng tôi biết, đó là nơi bố mình từng dành ra hàng giờ đồng hồ để làm việc - đôi khi quên cả thời gian - với những trang giấy chi chít chữ, những bản vẽ kỳ lạ, và các thiết bị phức tạp mà tôi chẳng bao giờ được nhìn thấy ở thế giới bên ngoài.
Tôi hình dung thứ ánh sáng vàng dịu phát ra từ chiếc đèn bàn. Tôi gần như nghe thấy tiếng bút cọ xát vào mặt giấy đều đều trong gian phòng yên tĩnh, đôi khi có cả tiếng gõ phím lách cách hay âm thanh bíp bíp từ thiết bị nào đó vang lên. Mọi thứ thật quen thuộc, nhưng cũng thật lạ lẫm.
Tylar chạm tay vào màn hình cảm ứng trên bề mặt cửa được thiết kế trông như một lớp kính bóng loáng. Màn hình sáng lên ngay tức khắc, phản chiếu lại hình ảnh của chúng tôi và bắt đầu quá trình xử lý dữ liệu. Tương tự như những phòng làm việc khác, ISH không sử dụng loại khóa điện tử thông thường, mà sử dụng loại khóa sinh trắc học đặc biệt, tích hợp cả ba yếu tố: vân tay, nhịp tim và tần số sóng não.
Cậu giữ tay trên màn hình, để một tia laser mỏng quét qua các đường vân trên đầu ngón và lòng bàn tay. Ngay khi bước nhận diện hoàn tất, cánh cửa phát ra một âm thanh rất khẽ mà chỉ khi áp tai vào mới có thể nghe thấy, lúc này lớp cảm biến siêu nhạy trên bề mặt sẽ đo nhịp tim chính xác trong thời gian thực. Cậu giải thích rằng, dữ liệu này sẽ được đối chiếu với thông tin được đưa vào trước đó trên cơ sở dữ liệu của hệ thống vận hành, nhằm đảm bảo sẽ không có cá nhân thiếu trung thực nào cố ý lẻn vào phòng người khác. Cuối cùng là bước quét tần số sóng não để phân biệt cá nhân là người hay bản sao. Cậu nói, sóng não của mỗi người là duy nhất nên không ai có thể can thiệp để thay đổi, điều này sẽ giúp quy trình bảo mật được an toàn hơn so với các phương thức truyền thống. Nhưng, trên hết vẫn là để thu thập dữ liệu hành vi của cậu ở mọi địa điểm trong trụ sở và ngăn cậu không lạm quyền.
Cả quy trình không đến vài giây, nhưng để nói rõ từng giai đoạn thì cảm giác như thời gian đã trôi qua rất nhiều.
Tylar mỉm cười đầy nhẹ nhõm khi thấy cửa đã mở. “Vào đi.”
Tôi hiểu cảm giác của cậu. Vì tôi cũng từng bị nhốt bên ngoài phòng làm việc của chính mình chỉ vì hôm ấy tôi thấy đau đầu và nhịp tim tăng cao. Các đồng nghiệp dặn dò rằng, chỉ có hai lần nhận dạng cho loại khóa đặc biệt này. Nếu quá số lần quy định, hệ thống sẽ báo động đến phòng giám sát và nhân viên an ninh sẽ tìm tới ngay.
Lần đó, tôi đã thử mở khóa khoảng năm lần, nhưng không lần nào thành công. Và hiển nhiên, mười nhân viên đã được cử đến để xem xét tình hình ngay tức khắc. Tôi từng hỏi họ vì sao không thử cách nào khác đỡ phức tạp hơn, bởi điều này có thể ảnh hưởng đến tiến độ công việc khi cơ thể con người không phải lúc nào cũng trong trạng trái hoàn toàn ổn định. Nhưng nhân viên an ninh chỉ đáp rằng, đó là quy định và không ai có quyền ý kiến, nếu vội vào phòng thì có thể liên hệ với phòng giám sát để xin phê duyệt sử dụng khóa cơ. Tôi nghĩ cách này cũng là một cách giải quyết tốt, nhưng nếu phải đợi Richard Campbell phê duyệt thì tôi thà đứng ở ngoài còn hơn.
Và ngày hôm đó, tôi đứng ở ngoài thật. May mà cô Emily đã tốt bụng cho tôi vào phòng ngồi làm việc cùng.
“Cậu không thử nói với bố xem, biết đâu ngài ấy nghe lời cậu đấy.” Tôi nói vu vơ.
“Chịu đấy, tớ cũng từng bị nhốt ở ngoài rồi, nhưng thay vì vứt luôn cái khóa ngu ngốc đó thì ông ấy chỉ lược bỏ hai bước sau thôi.” Cậu ngồi xuống ghế sô pha và thở dài một hơi mệt mỏi. “Rõ ràng là cơ thể bản sao còn thất thường hơn con người mà. Phiền phức thật.”
Có vẻ như cậu đang nhắc đến những giới hạn bắt buộc của cửa khóa, rằng mục đích quan trọng nhất vẫn là ngăn chặn sự đột nhập của các bản sao, hay nói đúng hơn là để ngăn chặn cậu. Các thông số sinh học trong cơ thể bản sao luôn thay đổi liên tục, điều đó khiến cậu gặp khó khăn khi muốn đặt chân vào nơi nào đó, dù bản thân vốn đã cầm trong tay tấm thẻ thông hành quyền lực nhất trụ sở. Quả nhiên, Richard Campbell vẫn không hoàn toàn tin tưởng cậu, dường như ông ta hiểu rõ bản tính của “chính mình” hơn ai hết.
“Được rồi, có chuyện gì với cuốn nhật ký đó sao?”
Tôi ngồi xuống ghế đối diện cậu, chỉ nhìn thoáng qua căn phòng một lần rồi đổ dồn sự chú ý vào nơi muốn thấy câu trả lời. Tylar im lặng trong khoảnh khắc, gương mặt bày ra vẻ mệt mỏi lúc đầu đã biến mất, thay vào đó là một thái độ nghiêm túc hơn. Cậu đan tay, mắt nhìn xuống bàn như để suy nghĩ thêm một lúc, rồi mới ngẩng lên nhìn tôi.
“Cậu biết những nhà khoa học luôn có bí mật để thí nghiệm được thành công, đúng chứ? Bố cậu cũng vậy.” Cậu bắt đầu giải thích. “Nếu để người ta biết cuốn nhật ký đó vẫn còn tồn tại thì cậu sẽ gặp nguy hiểm. Ngày trước, bố cậu đã phải chạy trốn khắp nơi vì bí mật được ghi chép trong cuốn sổ đó, đừng để chuyện này lặp lại với cậu một lần nữa.”
“Bí mật? Nó nằm trong cuốn nào?” Tôi không tránh khỏi hoang mang.
“Cả hai. Một cuốn là ghi chép về tiến hóa siêu phàm. Một cuốn là vạch trần âm mưu của đất nước X.”
Tiến hóa siêu phàm là tham vọng của Richard Campbell. Chị Hannah từng nói với tôi rằng, Viện trưởng đã tiến hành dự án này trong âm thầm với những đồng nghiệp mà ông ta tin tưởng, nhưng cũng mau chóng hủy bỏ nó chỉ vì không đủ nguồn vốn để bù đắp vào thất thoát nặng nề từ những thất bại nối tiếp nhau. Nhưng bố tôi đã thành công? Ông ấy đã thành công trong dự án can thiệp vào quá trình phát triển tự nhiên của con người.
Thật vô lý. Đúng là bố tôi luôn nhận được nguồn tài trợ khổng lồ từ ISH lẫn các thế lực tư nhân để tiến hành thí nghiệm, nhưng đây là lần đầu tiên tôi nghe được chuyện ông ấy thành công trên một dự án mới mà không có sự tham gia của ISH hay Richard Campbell. Bố đã luôn có mặt ở trụ sở xuyên suốt, vậy thì ông ấy tiến hành nó khi nào, và bằng cách nào?
Tôi ngồi bất động, không thốt nên lời. Theo như Tylar nói, bố tôi không chỉ tham gia vào nghiên cứu khoa học, mà còn dính líu đến những bí mật chính trị không thể vạch trần. Quả nhiên kết cục này buộc phải xảy ra, khi Henry – người tình của bố – là một tên tội phạm, và bản thân ông cũng luôn phải sống phụ thuộc vào nguồn tài trợ khổng lồ của những kẻ quyền lực.
“Đất nước X?” Tôi lặp lại.
“Cậu biết nơi đó không?” Cậu nhìn tôi, hỏi. “Tớ nghe nói, đó cũng là một trong những nhà tài trợ chính của trụ sở.”
Tôi nhanh chóng lắc đầu. “Tại sao lại là đất nước nhỉ? Họ đồng lòng ủng hộ mấy dự án phi pháp này sao?” Tôi dựa lưng vào ghế, hai mắt vẫn không rời khỏi Tylar. “Thường thì chỉ có một nhóm chính trị gia hoặc tài phiệt của quốc gia hợp sức lại để tài trợ cho ISH. Vậy thì gọi là nhóm X hoặc tổ chức X sẽ hợp lý hơn mà? Đất nước… không phải quá rộng và vô lý hả? Khó hiểu thật đấy.”
“Hợp sức để tài trợ? Họ không cần đất nước sao?” Cậu bày ra vẻ mặt khó hiểu.
Tôi cố gắng xâu chuỗi mọi hiểu biết trong đầu về sự tồn tại của một quốc gia. Tôi nghĩ mọi người đều hiểu quy luật vận hành thật sự của quyền lực, nhưng với một người chưa từng tiếp xúc với thế giới bên ngoài như Tylar – thậm chí không có động lực để “thức tỉnh” nhận thức trong khía cạnh này của nguyên thể – sẽ rất khó để cậu hình dung nhanh chóng mà không gặp phải bất cứ trở ngại nào.
“Có lẽ… đất nước X chỉ là một vỏ bọc.”
Tôi nói một cách cẩn trọng. Bởi hơn ai hết, tôi hiểu rõ hậu quả của việc phát ngôn vô căn cứ là gì. Dù ngay tại đây – trong môi trường tách biệt – sẽ không ai nghe được những lời tôi sắp nói, nhưng qua tai một kẻ có đầu óc nhanh nhạy như Tylar, khả năng cao vấn đề sai lệch sẽ nảy sinh rất nhiều.
“Trên thực tế, đó có thể là sự hợp tác giữa các chính trị gia và tài phiệt quyền lực. Họ là những kẻ có khả năng thao túng cả một quốc gia trong mọi lĩnh vực. Ở một mức độ nào đó, chính phủ sẽ không can thiệp vào dự tính của họ để bảo toàn lợi ích của mình.”
Tôi nhớ lại những gì từng đọc trong sách, báo, tài liệu về chính trị và kinh tế. Theo đó, quyền lực ở hầu hết quốc gia luôn bị phân tán qua nhiều tầng lớp: chính phủ, quân đội, tài phiệt và thế giới ngầm. Ngay cả những chế độ độc tài mạnh mẽ nhất cũng không thể tránh khỏi sự chia rẽ nội bộ. Và trong tất cả những tầng lớp được phân chia quyền lực đó, có một liên minh của những kẻ có sức mạnh vượt trội – nơi tập hợp những bộ óc tài giỏi nhất, tham vọng nhất và cũng giàu có nhất – giới tinh hoa (elite). Họ không chỉ nắm trong tay khối tài sản khổng lồ, mà còn nắm giữ quyền lực to lớn đủ tác động đến sự tồn vong của một quốc gia.
Từ sự ra đời của nhóm tinh anh này, rất nhiều liên minh quyền lực khác đã xuất hiện dựa trên nền tảng vững mạnh sẵn có. Một trong số đó là nhóm lợi ích (EPC) – gồm chính trị gia trong bộ máy đất nước và tài phiệt đến từ giới tinh hoa[1]. Những chính trị gia giàu tham vọng luôn cần tiền để duy trì và khuếch trương quyền lực, trong khi giới tài phiệt cần chính trị làm “khiên” để gia tăng lợi ích của mình. Hai nhóm người này liên kết với nhau tạo thành một cấu trúc vững chắc, hoạt động bí mật đằng sau những quyết sách công khai được đưa ra nhằm mục đích bảo vệ sự an toàn của chính họ.
“Đất nước X” đã hình thành dựa trên thỏa thuận này, như một vỏ bọc vừa hợp pháp vừa phi pháp để tài trợ cho các nghiên cứu xoay quanh việc nhân bản con người. Tài phiệt cung cấp nguồn lực – tiền bạc, công nghệ, và cả những khu vực bí mật – để thực hiện các thí nghiệm không thể công khai. Chính trị gia cung cấp “lá chắn” thông qua những bộ luật không rõ ràng, rộng hơn nữa là gây cản trở những cuộc điều tra, và thậm chí là hợp tác để đổi lấy sự bảo trợ ngầm từ các cơ quan an ninh quốc tế.
“Nghĩa là chúng ta sẽ không thể sống ở ngoài đó, nếu động chạm đến lợi ích của họ?” Cậu thắc mắc.
“Phải. Việc cậu sắp làm sẽ động chạm đến lợi ích của họ.” Tôi khẽ gật đầu. “Tôi nghĩ là… việc trả tự do cho các bản sao chỉ càng khiến họ muốn giết cậu hơn mà thôi.”
Những bản sao chưa bao giờ được công nhận là một con người, và trong mắt những kẻ tham vọng đó, họ chỉ đơn giản là công cụ để thị uy với thế giới, hoặc nặng hơn nữa là trở thành nguồn lợi nhuận khổng lồ. Còn đối với Tylar, bản sao là những con người xứng đáng được tự do, là những cá thể có cảm xúc cần được sống độc lập thay vì phụ thuộc vào máy móc và nguyên thể. Hai quan điểm đó mãi mãi không thể dung hòa, vậy nên chiến tranh sẽ nổ ra nếu một trong hai khơi mào trận chiến.
“Nhưng bọn tớ đâu thể sống mãi ở đây đúng không?” Cậu cười, nhưng nụ cười đó chẳng mấy vui vẻ. “Con người đã tạo ra bọn tớ để phục vụ mục đích của họ. Tớ biết mà. Tớ từng thấy đồng loại của mình bị con người moi tim, xé xác để lấy nội tạng. Nói thật là lúc đó tớ thấy mình vô dụng khủng khiếp. Nếu con người muốn sống thì bọn tớ cũng vậy, nhưng có ai hiểu đâu. Họ chỉ biết nghĩ cho bản thân họ thôi.”
Lời nói của Tylar sắc bén như một lưỡi dao, rằng đó mới thật sự là suy nghĩ của cậu chứ chẳng phải cái câu bản thân chỉ đáp trả khi ai đó đả động đến lợi ích của mình. Nụ cười gượng gạo trên gương mặt ấy, kèm theo những lời lẽ cay đắng không lệch một li đã khiến tim tôi gần như thắt lại. Tôi không biết mình đang đau đớn vì điều gì, vì những gì Tylar và các đồng loại của cậu đã trải qua, hay chính vì nhận ra tôi là một con người – một con người bước ra từ giống loài mà cậu rất căm hận.
Tôi không thể tưởng tượng được nỗi kinh hoàng của Tylar khi chứng kiến đồng loại của mình lần lượt ngã xuống vì tham vọng “bất tử” của con người. Tôi không thể tưởng tượng được gì cả. Cảm giác vô dụng khủng khiếp mà cậu nhắc đến, cả nỗi đau lẫn bất lực khi các cậu nhận ra bản thân chỉ là những công cụ phục vụ cho lợi ích của con người, là những mạng sống rẻ mạt đến mức sinh ra chỉ để chết đi – tất cả những điều đó cứ lần lượt xâu xé trong lòng, khiến tôi vừa đồng cảm, vừa thấy tội lỗi vô cùng.
“Tôi… Tôi sẽ bảo vệ các cậu. Tôi hứa đấy.”
Lời nói bật ra khỏi miệng trước khi kịp suy nghĩ, như thể trái tim dũng cảm đã lên tiếng thay cho lý trí tầm thường. Tôi thấy giọng mình trở nên run rẩy, nhưng không vì sợ hãi, mà vì tôi hiểu được sức nặng của lời hứa mà mình vừa thốt ra.
Tylar nhìn tôi bằng ánh mắt khó đoán. “Bằng cách nào?” Cậu hỏi lại, dường như không thể tin tưởng.
“Cậu nói một trong hai cuốn nhật ký mà bố tôi để lại có nội dung vạch trần âm mưu của đất nước X,” Tôi trả lời một cách vội vàng, như sợ cậu sẽ đổi ý, sẽ nghi ngờ và sẽ chẳng muốn tin. “Tôi sẽ mang nó đến cho UNHRC. Họ đang mở lại cuộc điều tra về nhân bản con người, chỉ cần có bằng chứng đủ thuyết phục thì họ sẽ tin thôi.”
Lòng tôi như sắp sửa nổ tung, vừa sợ vừa hy vọng. Tôi sợ rằng cậu sẽ ngăn cản, sẽ hoài nghi, rằng điều này thậm chí còn bất khả thi hơn toan tính của cậu. Nhưng tôi cũng hy vọng cậu sẽ tin tưởng, sẽ chấp nhận đặt niềm tin nơi tôi, bởi tôi là con người duy nhất biết được những suy nghĩ sâu thẳm trong cậu.
Tylar không trả lời ngay. Cậu nhìn tôi một cách chăm chú, như muốn đọc hết những suy nghĩ đang thoắt ẩn thoắt hiện trong đầu. Căn phòng chìm trong khoảng lặng kéo dài, và cơ thể tôi cũng bắt đầu run rẩy dữ dội hơn. Tôi sợ. Dù biết rõ cậu sẽ luôn giữ im lặng trong những thời khắc khó xử thế này, nhưng tôi cũng có cảm giác như có điều gì đó đã khác đi so với những lần trước.
Tôi đáp lại cậu bằng ánh mắt lo lắng, nhưng tiếc thay, trên gương mặt bình thản ấy lại chẳng có một chút dao động khẽ khàng nào. Cứ như thể cậu không hề tin tôi, cứ như cậu chỉ đang thầm nhắc nhở tôi hãy thấy hối hận vì lời nói của mình, và rồi cậu sẽ vui vẻ quên đi tất cả.
“UNHRC à?” Cậu bất ngờ lên tiếng. “Cậu nghĩ xác suất thành công là bao nhiêu?”
Tôi bất giác cúi đầu. Xác suất thành công? Tôi chưa bao giờ nghĩ đến, cũng chưa bao giờ quan tâm việc mình sẽ làm có kết quả hay không. Kế hoạch hình thành trong đầu một cách chớp nhoáng. Điều duy nhất tôi biết ở thời điểm ấy là phải mang cuốn nhật ký đến nơi cần đến, còn kết quả sau đó tôi không lường trước được.
Tôi tưởng tượng về những cuộc họp kín đáo với đông đủ thành viên, và trên tay họ là hàng loạt bản sao của cuốn nhật ký mình mang đến. Tôi nghĩ về cảnh tượng những bằng chứng ấy sẽ bị soi xét đến từng con chữ để tìm ra lỗ hổng, rồi sẽ bị bác bỏ như đống giấy cũ vô giá trị. UNHRC chưa bao giờ an toàn nếu bên trong nội bộ đã xuất hiện sự can thiệp của Richard Campbell. Ông ta từng nói bản thân đã gửi lại một vài cá nhân để đáp trả hành động vụng về của liên minh công lý. Liệu trong số đó có bao gồm tổ chức nhân quyền này hay không? Tôi không biết nữa.
“Một… Một phần trăm.” Tôi cúi gằm mặt.
Nỗi xấu hổ tràn ngập trong lòng – xấu hổ vì những suy nghĩ thiển cận của bản thân, và xấu hổ khi phải thừa nhận với cậu một xác suất mong manh đến vô nghĩa. Rồi, cậu bật cười. Tiếng cười vang khắp căn phòng như muốn phá tan bầu không khí căng thẳng. Tôi ngẩng mặt nhìn cậu, khó hiểu đến không nói nên lời. Nhưng hình như đó là nụ cười thật, không phải chế giễu.
“Andrey à, đôi lúc cậu cũng liều lĩnh thật đấy.” Cậu vừa nói, vừa đưa tay xoa ngực trông có vẻ khó khăn.
“Đúng không?” Tôi đáp lại. Tuy vẫn còn bối rối, nhưng tôi không thể phủ nhận cảm giác nhẹ nhõm đang dần len lỏi và xoa dịu đi mớ hỗn độn trong lòng.
Tylar vẫn như vậy, vẫn luôn bình tĩnh trước mọi vấn đề và chưa từng tỏ ra bất ngờ hay khó chịu trước sự lúng túng đến ngờ nghệch của tôi. Cậu chỉ cười nhẹ, như thể trấn an, như thể nhắc tôi đừng lo sợ nữa. Đó hẳn là một nụ cười biết nói, nhưng chính nụ cười đó cũng luôn khiến tôi phải suy nghĩ rất nhiều.
“Có người từng nói, tôi sẽ chết sớm vì cái tính liều lĩnh này đấy.”
Thực hiện kế hoạch chỉ với một phần trăm cơ hội, cũng giống như tự mình nhảy xuống vực thẳm không đáy, dù biết sẽ chết nhưng không còn cách nào khác ngoài việc phải chấp nhận.
Tôi đã sống một cuộc đời với những suy nghĩ liều lĩnh bất chợt như vậy, rồi khi chuyện đã qua thì chống chế nó bằng việc than vãn mình không còn sự lựa chọn nào khác. Cuộc sống của tôi luôn dễ dàng, chỉ có tôi tự khiến mình gặp khó khăn bởi những hành động bốc đồng không thể khống chế. Nhưng ít nhất thì sự liều lĩnh (đôi khi ngu ngốc này) luôn mang một ý nghĩa lớn lao, không chỉ với riêng tôi, mà còn với những người đủ can đảm đặt niềm tin ở mình.
“Vậy cậu quyết định thế nào?” Tôi hỏi. “Có dám tin tưởng kẻ liều mạng này không?”
“Tin, tớ tin cậu.” Cậu gật đầu, không chút do dự. “Thay vào đó, tớ sẽ nâng xác suất thành công lên một chút bằng cách đi trước bố một đoạn.”
“Cậu tính hớt tay trên à?”
Câu hỏi bật ra như một phản xạ để thỏa mãn cơn tò mò, nhưng tôi cũng thấy hối hận ngay lập tức vì bản thân cứ vô thức thể hiện như mình muốn hiểu rõ Tylar. Đó không phải là một ý định tốt. Tôi đoán là cậu nghĩ như vậy, cho nên cuộc trò chuyện giữa chúng tôi mới luôn rơi vào ngõ cụt khi tôi cố tìm hiểu quá nhiều.
Con người Tylar luôn là một ẩn số - không bao giờ nói nhiều hơn cần thiết, và không bao giờ giải thích rõ ràng những suy nghĩ hay kế hoạch của mình. Cậu hay nảy lên những “sáng kiến” bất chợt, và tôi khó thể nào theo kịp suy nghĩ ấy nếu không được gợi ý vài điều. Vốn dĩ, tôi luôn chậm chạp trong những chuyện thế này nên cũng không thể cứ trách cậu “quá kín”.
Nhưng điều khó chịu nhất không phải là việc tôi không thể hiểu cậu, mà là việc tôi không thể phớt lờ. Dù biết rõ đâu là giới hạn không được phép vượt qua, nhưng đôi lúc, cơn tò mò vẫn khiến tôi ngu muội. Cậu rất kiệm lời, đặc biệt là với những kẻ tọc mạch. Đáng tiếc thay, tôi lại là một trong số đó. Thật nhục nhã. Có lẽ sự khác biệt lớn nhất giữa tôi với những kẻ tọc mạch khác là cậu nhượng bộ tôi, ít nhất thì điều này đúng khi mối quan hệ giữa chúng tôi vẫn khá tốt dù đã trải qua không ít lần khó xử. Tôi không biết vì sao lại như thế, nhưng chính sự nhượng bộ vô lý ấy đã khiến tôi càng được nước lấn tới nhiều hơn.
“Bố luôn dặn tớ làm gì cũng phải biết tính trước người khác một bước để không bị nắm thóp, nhưng đôi khi tính trước vẫn không đủ, nên phải hành động trước để tạo đường lui cho chính mình.”
“Được không đấy?”
Tôi khẽ rùng mình, như thể bản thân đang đối mặt với lưỡi dao đủ sắc để làm tổn hại đến Richard Campbell. Đây hẳn phải là một kế hoạch nguy hiểm, vì mục tiêu là người đàn ông quyền lực nhất trụ sở - cũng là người hiểu rõ Tylar - chứ chẳng phải một gã kém cỏi nào đó dễ bắt thóp.
“Chắc chắn mà.” Cậu chồm người về trước, nói nhỏ. “Tớ sẽ mang con chuột nhắt của UNHRC đến cho cậu.”
Tôi nhìn thái độ ranh mãnh của cậu, không biết nên ngưỡng mộ vì cậu tiếp thu vấn đề quá nhanh, hay phải lo lắng vì sự tự tin quá mức đó. Cậu luôn thể hiện như mình có thể làm được bất cứ điều gì, nhưng đôi lúc suy nghĩ ấy đã khiến cậu không thể trở thành một “Richard Campbell” hoàn hảo. Tôi luôn nghĩ như vậy.
Tylar luôn hiểu biết nhiều hơn so với những gì cậu thể hiện, nhưng cũng chính sự nhạy bén đầy ấn tượng đó đã khiến tôi không tránh khỏi bất an. Cậu cứ như một con mèo nghịch ngợm thích chơi trò vờn nhau với con mồi mà không mảy may lường trước rằng bẫy chuột cũng có thể khiến mình bị thương.
_____
[1] EPC (Elite-Political Complex) – hư cấu: Dựa theo MIK (Military-Industrial Complex) – thực, dùng để chỉ liên minh giữa giới chính trị và các nhóm kinh tế (elite) nhằm bảo vệ lợi ích chung.
Bình luận
Chưa có bình luận