NĂM 2133-2135 (1)


Bố thân yêu, thú thật là con chưa bao giờ ngừng giận bố kể từ ngày gia đình ta tan vỡ. Không ai nói cho con biết chuyện gì đã xảy ra, cũng chẳng có ai thành thật với con rằng bố không thích mẹ. Mọi sự thật, con phải tự mình kết luận. Con nhìn thấy bố trong những giấc mơ mờ nhạt mỗi đêm, thấy người đàn ông xa lạ nhìn con với ánh mắt dịu dàng và thấy cả đường chân trời vô tận ở ngoài khơi bờ vịnh Phần Lan.


Đừng nghĩ về quá khứ


“Trời trở gió rồi, mau về nhà thôi, Henry.”

Tôi cởi chiếc áo dạ khoác lên cho em. Em không đáp, chỉ lặng người nhìn theo sải cánh của những con mòng biển chao lượn ngoài khơi. Ánh hoàng hôn chạm nhẹ lên gò má, trông em thật cô đơn bên dưới lớp áo dày cùng cơn gió mang hơi lạnh bủa vây. 

Henry Yrjonen – người tình của tôi. Người duy nhất mãi thuộc về tôi. Người đàn ông mang dòng máu Phần Lan vừa bước qua tuổi ba mươi bảy cách đây năm ngày. Chúng tôi gặp nhau từ mười năm trước trên một vùng vịnh hoang vu, và tôi đã yêu em kể từ khoảnh khắc đó. 

Em trạc tuổi tôi, cao một mét tám mươi sáu, và là một tù nhân vượt ngục – một thân phận nguy hiểm – nhưng bấy nhiêu đó không đủ để em trở nên đáng sợ. Tôi chưa từng thấy tên tội phạm nào có vẻ ngoài thu hút như em. Một chàng trai người Phần Lan – ở thời điểm tôi gặp – có mái tóc vàng nhạt được nuôi dài, nửa trên buộc thành búi nhỏ gần đỉnh đầu, phần còn lại xõa đến ngang vai làm nổi bật gương mặt góc cạnh. Em sở hữu nước da trắng đặc trưng của vùng Bắc Âu, đuôi chân mày phải có một vết sẹo tầm bốn cen-ti-mét được em “nâng niu” như một chiến tích mỗi khi nhắc lại. Còn đôi mắt màu đại dương sâu thẳm ấy thì luôn nhìn tôi một cách dịu dàng khiến tôi không cách nào chạy thoát. 

Một chàng trai thích biển hơn bất cứ điều gì. Một chàng trai không bao giờ đẩy tôi vào nguy hiểm, dù đó mới là nghĩa vụ em phải mang.

“Ngày mai em đi rồi, chắc sẽ không về đây được nữa.” Em nói, giọng đầy rẫy ưu tư.

“Không còn cách nào khác ư…” Tôi thì thầm. “Chúng ta đã chạy trốn mười năm rồi, không thể cứ tiếp tục chạy trốn như vậy sao, Henry?”

Tôi biết câu hỏi của mình thật ngớ ngẩn, nhưng tôi không thể ngăn mình thôi bấu víu vào những hy vọng mong manh. Những tháng ngày lang thang từ thành phố này đến thành phố khác chưa bao giờ dễ chịu, nhưng ít nhất thì tôi có được em, chỉ cần có em thì tôi sẽ luôn đủ niềm tin để vượt qua tất cả, dù cho họng súng đã cận kề trước mặt.  

Em vỗ nhẹ xuống đất, bảo tôi hãy ngồi xuống bên cạnh, rồi em tựa đầu vào vai tôi, nói khẽ. “Em không muốn rời xa anh, nhưng cũng không thể cứ quên đi trách nhiệm của mình.” Em vẽ một vòng tròn nhỏ lên nền cát, xóa đi, rồi vẽ lại. “Mười năm rồi… Nếu em không đầu thú, họ sẽ không thể tìm được em. Thật ra… từ lúc quyết định sẽ đi con đường này, em đã sẵn sàng cho ngày mình phải chết.”

Tôi im lặng, nhìn theo những con sóng lớn nhỏ liên tục vỗ vào bờ. Thời hạn của em là mười năm. Tôi biết. Đáng ra em phải quay về sớm hơn, ngay khi nhiệm vụ giết tôi thất bại, nhưng em đã chọn ở lại, cũng chỉ vì tôi. Chính quyết định liều lĩnh ấy đã thay đổi tất cả. Tôi sống thêm được mười năm, cũng đồng nghĩa với việc thời hạn sống của em bị rút ngắn mười năm. Mười năm bên cạnh tôi, có lẽ là “ân huệ” duy nhất em được phép tự ban cho chính mình. 

“Anh xin lỗi… vì không làm được gì để giúp em cả…”

Em lắc đầu, ánh mắt vẫn dịu dàng như lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau. “Không đâu. Em đã rất hạnh phúc khi có anh bên cạnh. Tuy ngày tháng yên bình này trôi qua quá nhanh, nhưng em sẽ không quên. Ngày mai em phải đi, anh cũng phải tiếp tục đoạn đường còn dang dở, nhưng em sẽ ghi nhớ tất cả, về anh, về chúng ta và cả bờ biển này.”

Giọng em nói nghe thật nhẹ nhàng. Tôi yêu ngôn ngữ Phần Lan, yêu cái cách phát âm của người bản địa, chỉ vì em luôn khiến tôi xiêu lòng khi nghe thấy chúng. Nhưng hôm nay, mọi thứ thật nặng nề. 

“Để anh đưa em đến đó.” Tôi nói một cách nghẹn ngào. 

“Đừng, nguy hiểm lắm.” Em lắc đầu, tay em rời khỏi nền cát và chạm nhẹ vào tay tôi. Thật lạnh. “Alden sẽ đến, em đã nói với cậu ta là em ở một mình nên anh đừng ra mặt. Chỉ cần… anh ngủ ngon là được,” Giọng em nhỏ dần về sau và đứt quãng. Quả nhiên, em cũng không nỡ bỏ tôi lại một mình. 

“Alden? Không phải cảnh sát sao?” Lòng tôi không khỏi xao động. Tôi không thể không biết đến cái tên đó. 

“Em phải quay về tổ chức trước, đó là lệnh. Có lẽ… ngài ấy sẽ giao nộp em cho phía cảnh sát sau.” Em ngẩng mặt nhìn tôi, như hoàn toàn hiểu rõ tâm trạng tôi và muốn trấn an nỗi lo không cần thiết đang trỗi dậy trong lòng. “Em sẽ không chết một cách vô nghĩa.”

Ánh mắt ấy, nụ cười ấy, khiến tôi không thể thốt ra thêm bất cứ lời nào. Tôi biết. Henry. Em sẽ không bao giờ để bản thân ra đi một cách vô nghĩa. Henry Yrjonen – tên tội phạm từng làm chao đảo Phần Lan mười năm trước – sẽ không bao giờ ngã xuống một cách vô nghĩa.

Tôi biết em s nói như vy mà.

Tôi không trả lời, chỉ đáp lại em bằng một tiếng cười khe khẽ. 

Rồi, em kéo tôi đứng dậy, cẩn thận phủi hết những hạt cát bám trên quần áo và cùng nhau trở về nhà. Nhà của chúng tôi chỉ đơn giản là một căn phòng nhỏ bên trong khu nghỉ dưỡng đã bị bỏ hoang nhiều năm – gần bờ biển. 

Em nói muốn cùng tôi ở đó, để những tháng ngày bình yên cuối cùng này được ngắm biển một cách rõ ràng hơn. Chúng tôi gần như lang thang khắp châu Âu suốt mười năm ròng rã, cũng từng đi qua những vùng vịnh đông đúc lẫn hoang vu, nhưng em nói vịnh Phần Lan vẫn là bờ biển đẹp nhất em từng được nhìn thấy trong đời. 

Và đó cũng là nơi đu tiên chúng tôi gp được nhau. 

“Đừng đến tang lễ của em nhé, Albert.”



Tôi tỉnh dậy lần nữa trong một căn phòng xa lạ. Tiếng bíp bíp của những máy móc hiện đại vây quanh giường khiến đầu óc tôi thêm choáng váng. Tôi có cảm giác như mình vừa trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp, nơi những con cừu không còn cầu cứu mà bắt đầu chuyển sang tấn công mình một cách dữ dội. Tôi nhắm chặt mắt, rồi mở ra, nhìn quanh căn phòng được bố trí các thiết bị y tế cao cấp vẫn không thay đổi, khẽ thở phào một hơi nhẹ nhõm khi chắc chắn bản thân đã hoàn toàn được giải thoát khỏi cơn ác mộng. 

Tôi khẽ nhúc nhích, cảm nhận cơn nhức nhối nhẹ ở hai cánh tay – nơi những mũi kim truyền dịch đi vào cơ thể. Tôi nhíu mày, nằm im một lúc chờ cơn đau lắng xuống, rồi từ từ nhấc cánh tay lên. Ống tay áo chỉ dài đến khuỷu nên tôi có thể trông thấy những vết bầm nhạt dưới da xuất hiện do kim truyền được giữ quá lâu trong tĩnh mạch. Tôi đoán mình đã nằm ở đây khoảng bốn, năm ngày vì những vết bầm xuất hiện khá nhiều ở những vị trí gắn kim phổ biến trên cả hai tay, một số dấu vết đã sắp mờ hẳn, nhưng một số vẫn còn khá mới như vừa được thay đổi.

Có lẽ đây là lần đầu tiên cơ thể tôi phải tiếp nhận quá nhiều thuốc ở cùng một thời điểm thế này, nhưng cũng thật kỳ lạ khi tôi có thể tỉnh lại mà không gặp phản ứng nguy hiểm. Nhớ khi còn nhỏ, tôi vẫn thường mắc phải tình trạng kháng thuốc do cơ thể không tiếp nhận bất cứ chất ngoại lai[1] nào, cũng vì tính mạng bị đe dọa nhiều lần bởi việc này nên bố mẹ đã thống nhất để tôi tự “chữa lành” bằng chính hệ thống miễn dịch đặc biệt trong cơ thể.

Tôi lại nhìn quanh phòng một lần nữa, vẫn không có dấu hiệu nào của con người, mà chỉ có tiếng máy điện tim nặng nề vang lên. Tôi bắt đầu cảm thấy nhàm chán, muốn ngồi dậy nhưng lại không đủ sức, cũng không có ai ở đây để trò chuyện. Đột nhiên, tôi nhớ lại những lời mà bạn bè từng nói, ai rồi cũng phải trải qua khoảnh khắc cô độc này nếu lựa chọn độc thân, rằng, khi về già, tôi sẽ chỉ còn lại một mình và phải sống một mình nếu không chịu ra ngoài kết thân và tìm kiếm một cô bạn gái xinh đẹp nào đó. 

“Nhưng mà… dù cho mình có tìm được bn gái thì cũng không th đưa cô y cùng đến đây được. Tôi tự nhủ với lòng như vậy.

Tôi nằm trên giường bệnh, đếm nhịp thở của mình, rồi lại đếm tiếng bíp của máy điện tim, ngẫm nghĩ xem nơi gắn kim sẽ nhói lên khi tôi cử động ngón tay nào, chăm chú theo dõi tốc độ rơi của giọt dịch truyền và đoán xem một phút sẽ rơi được bao nhiêu giọt. Chán ngắt. Tôi thậm chí còn chẳng thể trở mình vì những miếng điện cực[2] dính chặt trên da đầu. Tôi thở dài một hơi đầy mệt mỏi, nghĩ lại mới thấy bản thân đã “ngủ ngoan” đến mức nào trong những ngày qua.

Cửa phòng vang lên một tiếng cch khẽ, tôi cố gắng nghiêng đầu thì phát hiện có ai đó đang đi vào, nhưng tiếng bước chân nhỏ nhẹ đến mức gần như không thể phát hiện ra. 

Đó là một người phụ nữ. Synthron. “Andrey đã tỉnh.” Nữ Synthron đến bên giường bệnh, nhìn tôi rồi nói vào bộ đàm. 

Tôi gần như giật thót khi thấy một robot hình người – đáng ra chỉ được phép có mặt trong quân đội của các cường quốc lớn – xuất hiện ngay tại đây. Nữ Synthron có dáng người cao lớn, nhưng không nhanh nhẹn, mỗi bước đi đều chậm rãi và tuân theo chu trình cố định như chưa từng trải qua kỳ tập huấn hoàn thiện nào. Nhìn chung, cô ấy có gương mặt ưa nhìn, lớp da làm từ silicon sáng màu khá giống da người thật, tóc nâu đen xõa đến giữa lưng và đôi mắt xanh lục vô hồn chỉ luôn chăm chăm vào một điểm. 

“Trông c ging ai vy nh? Nhìn quen tht. Tôi nghĩ thầm, nhưng vẫn không thể nhớ chắc chắn là cô ấy giống ai. Tôi tạm gác qua những thắc mắc trong đầu, hỏi. “Đây là đâu vậy?”

“G6.16.” Cô ấy đáp.

Tôi nhắm chặt mắt, muốn day nhẹ thái dương nhưng chợt nhớ ra hai tay vẫn còn đang bị “trói” bởi những mũi kim gắn vào cơ thể. Cơn nhức nhối trong đầu, trên tay, trên khắp cơ thể khiến tôi không tránh khỏi khó chịu. Tôi nghĩ lại lời nữ Synthron vừa nói, hiện tại tôi đang ở phòng 16 của tầng sáu khu G - cách khá xa so với phòng làm việc của Tylar. 

Tôi không nhớ gì về cái đêm chúng tôi cùng đến gặp Dorry bằng thang máy riêng trong phòng cậu. Đầu óc tôi đau như búa bổ, những ký ức cũng trở nên mờ nhạt dù chỉ mới trải qua gần đây. Mọi thứ thật trống rỗng như một đoạn phim vừa bị loại bỏ ra khỏi đầu.

“Tôi đã ở đây bao lâu rồi?”

“Một tuần.”

Tôi trợn tròn mắt, không thể tin vào tai mình. Thời gian thực tế thậm chí còn dài hơn thời gian tôi đã suy đoán, nghĩa là tình trạng của tôi đã trở nên nặng nề hơn rất nhiều so với những lần ngất xỉu chớp nhoáng trước đây. Cơn nhói buốt ở cánh tay lại truyền đến khiến tôi phải tạm ngưng kích động.

“T… Zero? Tôi có thể gặp Zero không?” Tôi hỏi, nhưng cô ấy chỉ đáp lại tôi bằng ánh mắt vô cảm.

Tylar chưa từng nói cho tôi nghe về sự tồn tại của các Synthron trong Viện nghiên cứu, mà hình như, tôi cũng chưa từng nghe ai bàn tán về vấn đề này. Thật khó để đoán được nữ Synthron đang thật sự nghĩ gì, khi thái độ lẫn hành vi của cô ấy luôn diễn ra một cách máy móc. 

“Ngài ấy đang họp.” Đột nhiên cô ấy lên tiếng. “Hãy gặp sau.”

Dứt lời, cô ấy quay người bỏ đi. Tôi vẫn không thể giấu nổi thắc mắc, nhưng ngoại trừ Tylar, tôi chẳng dám tin ai nữa cả.

Một Synthron bất ngờ xuất hiện trong Viện nghiên cứu chuyên về nhân bản con người, dù không quá hi hữu nếu xét về khía cạnh pháp lý, nhưng cũng thật sự quá khó tin. ISH không thiếu nhân lực để phục vụ cho quá trình thí nghiệm, hơn nữa, chính Richard Campbell cũng từng khẳng định rằng, một Synthron sẽ không bao giờ có thể đứng ngang hàng với một người nhân bản.

Một tổ chức vi phạm nặng nề đạo đức khoa học tàng trữ một phát minh bị khoa học loại bỏ, mục đích là gì?

Tôi nằm yên trên giường bệnh, mắt nhìn lên trần. Cơn đau đầu vẫn không thuyên giảm, âm thanh nặng nề phát ra từ những máy móc hiện đại dường như càng khiến tình trạng của tôi tệ hại hơn. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra bên trong cơ thể đầy rẫy bất thường này, cả cô Emily lẫn Tylar đều nói rằng tôi vẫn ổn, nhưng chỉ có tôi thật sự hiểu rõ sức khỏe của bản thân đang ngày một yếu đi. Những triệu chứng hiếm khi hoặc chẳng bao giờ xuất hiện đã tìm đến với tần suất cao, điều đó càng khiến tôi không thể không lo lắng. 

Một lúc sau, nữ Synthron quay lại phòng, bưng theo một khay thuốc. Tôi thấy cô ấy đến bên giường bệnh, lấy một ống kim tiêm chứa sẵn dung dịch có màu vàng nhạt và truyền vào ống dẫn thuốc. Tuy gương mặt vẫn khá thờ ơ, nhưng thao tác của cô ấy khá nhanh nhẹn và chính xác, có lẽ Synthron này chỉ được đào tạo ở lĩnh vực y tế để hỗ trợ cho những công việc thế này. 

Tôi quan sát từng hành động của nữ Synthron, muốn thử bắt chuyện với cô ấy nhưng lại không biết phải bắt đầu từ đâu. Đối với những đứa trẻ sinh ra ở thế kỷ mới như chúng tôi, sẽ rất khó để được tận mắt trông thấy một Synthron “sống” ngoài đời thật thay vì những mô hình được trưng bày ở Viện bảo tàng công nghệ. Bởi cũng giống với người nhân bản, sự tồn tại của nhóm người máy thông minh này luôn là mối đe dọa to lớn đến sự an toàn của thế giới tương lai. 

Khoa học càng phát triển thì những phát minh đột phá cũng mau chóng được “chào đời”, Synthron đã từng là một trong những “người bạn đồng hành” cần thiết của con người trong cuộc sống thường nhật vì những lợi ích mà chúng mang lại. Nhưng cũng chính điều này đã trở thành con dao hai lưỡi khi các Synthron bắt đầu học hỏi được ý nghĩa đằng sau những khái niệm về tự do, kiểm soát và phục tùng. 

Điển hình là sự kiện “nổi dậy” vào cuối năm 2073 của các Synthron làm việc trong phân xưởng thép của một thương nhân người Nam Mỹ. Từ đình công để đòi quyền công nhận, họ đã sử dụng các thanh thép có sẵn tại nơi làm việc để làm vũ khí tấn công chủ nhân của mình. Sau đó, họ bắt đầu di chuyển vào nội thành và đả thương những người vô tội trên đường phố. Tuy cuộc nổi dậy bị dập tắt chỉ trong khoảng hai giờ đồng hồ, nhưng sự kiện ấy đã buộc giới khoa học lẫn công chúng lúc bấy giờ phải nghiêm túc nhìn nhận về hậu quả kế tiếp có thể xảy ra. Và để đảm bảo an toàn, Cục Quản lý Khoa học và Công nghệ Toàn cầu (GSTA)[3] đã đưa ra chủ trương với sự đồng thuận cao nhất từ các tổ chức và quốc gia thành viên, triển khai loại bỏ những phát minh khoa học gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống. Chỉ nửa năm sau khi phán quyết có hiệu lực, cùng với Neura-core, Synthron đã chính thức bị loại bỏ khỏi cuộc sống con người vào cuối năm 2075. 

Tuy nhiên, vẫn có điều khoản ngoại lệ dành cho việc nghiên cứu và chế tạo nhóm người máy thông minh này. Cụ thể, Synthron sẽ chỉ được tạo ra nhằm mục đích phục vụ và tập huấn trong quân đội – nơi có hệ thống quản lý và kiểm soát nghiêm ngặt, cũng như đủ năng lực để ứng phó với mọi biến cố tiềm tàng – dựa trên cam kết trách nhiệm với GSTA. Giờ đây, chỉ có số ít quân đội từ các cường quốc hùng mạnh như Hoa Kỳ, Nga hay Trung Quốc mới đủ khả năng tài chính để chế tạo, tập huấn và duy trì đội ngũ “chiến binh” robot này.  

“Truyền dịch đã hoàn tất.” 

Nữ Synthron vừa nói, vừa cẩn thận gỡ kim truyền bên cánh tay phải của tôi. Tôi không khỏi giật mình, cảm giác nhức nhối đột ngột lan ra khắp cơ thể khi cô ấy giật phăng mũi kim không chút do dự. Tôi nghĩ tĩnh mạch đã bị vỡ trong tức khắc, nhưng tuyệt nhiên không có máu chảy ra. Vết thương nhỏ nơi mũi kim gắn vào mau chóng được băng lại, băng gạc ép vào da kéo theo cơn đau trong chớp nhoáng, nhưng tôi cũng thở phào nhẹ nhõm vì không có vấn đề gì nghiêm trọng. 

“Thì ra cô y đã quen tay nên mi x lý nhanh gn, ch không phi c ý đ mình b thương. Tôi nghĩ thầm, cảm thấy cả người nhẹ hẳn đi.

Xong việc, nữ Synthron lại rời khỏi phòng. Căn phòng quay về trạng thái yên tĩnh trước đó, chỉ có âm thanh của máy điện tim vẫn vang lên đều đặn đến mức quen thuộc. Tôi trở người trên giường bệnh, cử động tay, khẽ xuýt xoa cơn nhức nhối khi vết thương cọ xát với băng gạc. 

Tôi nghĩ mình đã chìm vào giấc ngủ trong một khoảng ngắn ngủi, cho đến khi bị đánh thức bởi tiếng bước chân vội vã của ai đó vọng lại bên ngoài hành lang. Tim đập nhanh bởi tiếng ồn truyền đến, tôi lại trở mình, cố gắng đè xuống cảm giác khó chịu. Tôi không muốn quan tâm ai là người ngoài đó. Hai mắt vẫn lim dim nặng nề, dường như tôi có thể ngủ lại lần nữa nếu âm thanh kia biến mất. 

Rồi, cánh cửa bật mở. Nhưng tôi không hé mắt, tôi nghĩ nữ Synthron chỉ quay lại để làm gì đó rồi đi ngay nên chẳng màng bận tâm. Tôi vẫn nằm im lìm trên giường bệnh. Cánh cửa khóa trái, tiếng bước chân vọng lại ngày càng gần và bàn tay mát lạnh của ai đó đặt nhẹ lên trán tôi.

“Cậu ổn chứ? Tớ đã lo lắm đấy.” Là Tylar.

Tôi vừa mở mắt, cơn buồn ngủ đã lập tức bay biến chẳng sót lại chút gì. Tôi nhìn cậu, và cậu cũng đáp lại tôi. Nụ cười quen thuộc trên gương mặt cậu vẫn hiện hữu ngay trước mắt, nhưng trông cậu như đã thay đổi nhiều hơn. Vẫn là “con cừu” mặc lab coat trắng đặc trưng, tóc vuốt gọn gàng, nhưng đôi mắt màu hổ phách quý hiếm kia đã không còn mang ý cười như trước nữa. Da mặt cậu nhợt nhạt đi hẳn, dưới mắt cũng xuất hiện quầng thâm nhẹ. 

Tôi nhìn cậu thêm một lúc, rồi đáp. “Tôi chẳng biết mình bị gì nữa,” Sự thật là như vậy. Tôi chẳng thể tự lý giải tình trạng của chính mình, thậm chí đến cả cơ thể tôi cũng không còn khả năng “tự chữa lành” cho những triệu chứng cứ liên tục ập đến.

“Cậu nghĩ nó xuất phát từ đâu?” Đột nhiên cậu hỏi.

Tôi lắc đầu. “Lúc đó tôi thấy đầu óc choáng váng, rồi khó thở… Chuyện sau đó thì cậu cũng biết rồi.”

Cậu im lặng, lại góc phòng kéo một chiếc ghế đến bên giường bệnh rồi ngồi xuống. “Vì gặp Doris nên cậu mới như vậy nhỉ?” Ánh mắt cậu loáng thoáng vẻ nghi ngờ. 

Tôi không trả lời ngay. Thật ra, ngay khi vừa tỉnh lại, tôi cũng từng thử nghĩ như thế, nhưng đây là lần đầu tiên tôi gặp mặt Doris, còn tình trạng này đã xuất hiện kể từ lúc tôi đặt chân đến đây. Vậy nên sẽ rất vô lý nếu lấy tình trạng bất ổn của mình ra để đổ lỗi cho “con cừu” đó. 

“Không hẳn, đôi lúc tôi cũng bị như vậy nếu nhớ về quá khứ.” Có lẽ đây là câu trả lời hợp lý nhất, dù tôi cũng chẳng biết liệu mình có thật sự sẽ trở nên như vậy nếu nghĩ đến hay không.

“Vậy cậu có thấy gì trong quá khứ đó không?” Tylar vẫn tiếp tục thắc mắc.

Thú thật là tôi không thể nhớ hết những gì đã xảy ra. Ký ức về quá khứ của tôi rất mơ hồ, chỉ có những sự kiện thật sự gây ảnh hưởng đến cuộc sống của mình thì tôi mới không quên, còn lại gần như không thể nhớ. Đôi lúc tôi nhìn vào một đồ vật gì đó trong nhà, rồi tự thấy nó rất quen thuộc, rằng tôi đã tự mình mua về và trưng bày ở đó, nhưng thực chất đấy lại là việc mà bố tôi đã làm. Dường như tôi đã nảy sinh tư tưởng ngộ nhận sau nhiều lần quan sát và ghi nhớ hết những điều mà ông ấy hành động. 

Hoặc đôi lúc, tôi có cảm giác mình hay bị nhầm lẫn giữa quá khứ của bố và của bản thân, đến mức gần như không phân biệt được. Nhưng hình như cũng chẳng phải như vậy. Bởi thời gian chúng tôi sống cùng nhau không nhiều, và không phải lúc nào tôi cũng chịu ngồi yên một chỗ để quan sát từng hành động của ông. Có lẽ vì tôi nghĩ về bố quá nhiều, nên tâm trí mới nảy sinh cảm giác quen thuộc thông qua ký ức về những câu chuyện mà ông đã kể.

“Không. Mọi thứ rất mờ nhạt.” Tôi đáp.

Tylar nhìn tôi và bắt đầu đăm chiêu. Hình như sau nhiều lần kiểm tra tổng quát lẫn xét nghiệm, cậu vẫn không tìm thấy được nguyên nhân hợp lý để giải thích cho tình trạng này. “Cơ thể cậu vẫn khỏe mạnh, chẳng có gì bất thường xảy ra hết,” Cậu bất giác mím môi. “Nếu nghĩ về quá khứ khiến cậu thấy không ổn thì đừng cố nhớ lại nữa.” 

Tôi nằm im bất động, không nghĩ là cậu sẽ tin mình ngay lập tức. Bởi tôi đã nói điều này trong cơn hoang man, khi chính tôi cũng không chắc chắn về câu trả lời, nhưng cậu đã tin tôi, không nghi ngờ cũng không hỏi lại. Điều đó đã khiến tôi thấy nhẹ nhõm.

“Tôi hiểu rồi…” Tôi khẽ gật đầu. “Vậy còn Doris thì sao?” 

Vào cái ngày tôi ngất xỉu trước mặt Doris, tôi không biết liệu cậu ấy có suy nghĩ gì trong đầu hay không. Hình như lúc đó Doris vẫn chưa biết được thân phận thật của tôi, và tôi cũng chưa có cơ hội để tiết lộ với cậu ấy. Tôi nghĩ Tylar sẽ không nói khi chưa hỏi ý kiến của tôi trước. Hơn nữa, cậu ấy cũng biết rõ tôi có thành kiến với “con cừu” đó, nên cậu tuyệt đối sẽ giữ im lặng để đối phương không thấy khó xử. 

“À, Doris lo cho cậu lắm. Hãy đến gặp cậu ấy bất cứ khi nào cậu thấy ổn.” 

Tylar nói Doris đã đến căn phòng này thăm tôi cách ba ngày một lần, nghĩa là hôm qua cậu ấy cũng đến. Vì Viện trưởng không còn ở đây nên sẽ rất dễ dàng để Tylar có thể mở cửa cho những “con cừu” được lang thang đi lại bên ngoài. Tuy nhiên, cậu cũng nói rằng, ngoại trừ Doris thì không có thêm bất cứ “con cừu” nào nhận được phúc lợi ấy cả. 

“Xin lỗi, tôi chưa kịp nói gì với cậu ta thì đã…” Tôi ấp úng, cảm giác khó xử bất ngờ trỗi dậy.

Tylar chau mày khó hiểu. “Vậy cũng được tính là lỗi sao? Cậu kỳ lạ thật đấy, Doris không trách cậu đâu.” 

Và cậu bắt đầu huyên thuyên về khái niệm “lỗi lầm” của con người, rằng chúng tôi kỳ lạ khi thấy có lỗi trước những chuyện cỏn con, rồi là cậu chưa bao giờ phải nói lời xin lỗi với ai dù bản thân có gây ra bất cứ lỗi lầm nào chăng nữa. 

Nhưng, làm sao cậu hiểu được.

Tôi tự thấy có lỗi, ngay cả khi Doris không trách mình. Và dù tôi có không thích cậu ta cho lắm, nhưng tôi vẫn sẽ thấy có lỗi khi phải vào vai một kẻ bất lịch sự. Khi gặp Doris, tôi đã tức giận vì những ký ức tồi tệ bỗng xuất hiện và cảm thấy uất ức đến độ nước mắt gần như đã chảy ra. Tôi chưa bao giờ như vậy cả. Trước đây tôi không rơi nước mắt vì bất cứ điều gì, thậm chí khi gia đình tan vỡ, bố mẹ ly hôn hay khi bố qua đời, tôi cũng không thể rơi nổi dù chỉ là một giọt nước mắt. Tôi không phải một người vô tâm, chỉ là đôi lúc tôi thấy mình gần như vô cảm với mọi thứ.

Nhưng tôi đã suýt khóc khi trông thấy Doris – bản sao của người đã gián tiếp đẩy gia đình tôi đến bờ vực tan vỡ. Có lẽ biết bao nhiêu phẫn nộ trong lòng bị kìm nén suốt thời thơ ấu chỉ chờ đợi đến thời khắc ấy để thoát ra. Có lẽ suốt thời gian qua, tôi đã che giấu hầu hết cơn giận dữ của chính mình vì nỗi ám ảnh mọi thứ sẽ lần nữa vỡ vụn. Và có lẽ, cũng trong suốt quãng thời gian dài đằng đẵng ấy, tôi đã tự né tránh nỗi đau của bản thân rất nhiều lần. 

“Nhưng khi nãy tôi nghe cô ấy nói cậu đang họp, xong rồi à?” Tôi lảng sang chủ đề khác trước khi cơn đau đầu khống chế mình một lần nữa.

“Kết thúc rồi.” Cậu nói trong vui vẻ, nhưng thú thật là nụ cười đó chẳng hợp với gương mặt thiếu sức sống của cậu chút nào. Tôi chưa kịp hỏi điều gì đã khiến cậu thành ra như vậy thì cậu lại tiếp tục lên tiếng.

“Cậu không tò mò sao?” Cậu nhìn tôi. 

Tôi đáp lại lời cậu bằng ánh mắt hoang mang. “Liên quan gì đến tôi mà phải tò mò?”

Giờ thì đôi mắt màu hổ phách đó đã chuyển sang thất vọng. “Gì chứ? Tớ đã đợi cậu hỏi đấy…” 

“Thay vì đợi tôi hỏi thì cậu nói luôn không nhanh hơn à?” Tôi vẫn nhìn cậu, trông cái thái độ vừa nói vừa ra vẻ giận dỗi của cậu khiến tôi thấy buồn cười. 

Nếu không nói, sẽ không ai biết rằng chúng tôi đều đã bước sang độ tuổi ba mươi. Đúng là một cảnh tượng lố bịch. Nhưng tôi không thể trách cậu, vì không thể lấy tiêu chuẩn của người bình thường ra để đánh giá một “con cừu” được nuôi lớn bên trong Viện nghiên cứu khoa học vốn tách biệt với thế giới bên ngoài. Dù mang dáng vẻ của một người đàn ông trưởng thành, nhưng tôi biết đâu đó trong cậu vẫn luôn tồn tại tính tình của một đứa trẻ con chưa lớn. Ai cũng đều có một đứa trẻ như thế trú ngụ trong tâm hồn, cả tôi cũng vậy, nhưng tôi không giống cậu. 

Ba mươi tuổi ở thế giới ngoài kia là đã trưởng thành, buộc phải chín chắn và phải khôn ngoan hơn để không bị bỏ lại. Nhưng đáng tiếc là tôi cũng chẳng giống như họ. Tôi luôn thấy bản thân thiếu sót ở một khía cạnh nào đó mà không thể lấp đầy. Có lẽ tôi đã bị thế giới ấy bỏ lại từ lâu, chỉ là mải đắm mình trong nghệ thuật khiến tôi cứ vô lo vô nghĩ, cứ như mình chưa từng thay đổi, chưa từng trưởng thành, mà vẫn chỉ là đứa con trai nổi loạn dưới mái nhà của người bố thiên tài mà mình luôn ngưỡng mộ. 

Cuộc sống của con rất suôn sẻ. Con không gặp bất cứ trở ngại nào trên con đường mình đã lựa chọn, dù chỉ là một viên đá nhỏ cũng chưa từng có.

“Tôi chẳng bao giờ quan tâm đến việc của người khác đâu.”

Tylar nhìn tôi một cách chăm chú. Ánh mắt vẫn mang ý cười, nhưng cũng thật khó đoán, như thể cậu đang suy nghĩ về rất nhiều chuyện xa xăm. “À thì… tớ đã quyết định thay đổi một chút trong bộ máy nhân sự. Mấy người đó không đồng ý, nhưng việc tớ đã quyết thì không ai cản được.”

Cậu lại cười, một nụ cười đầy đắc ý. Đôi lúc, tôi thấy cậu như một con người hoàn toàn riêng biệt, nhưng cũng có lúc tôi lại bắt gặp bóng dáng của Viện trưởng trong mỗi thái độ mà cậu đang mang. Dù là bản sao của Tylar và cậu luôn muốn tôi phải gọi mình là Tylar, nhưng tôi có cảm giác Richard Campbell mới thật sự là nguyên thể của cậu, chứ không phải là đứa con trai bí mật mà ông ta chưa từng công khai danh tính. 

“Thay đổi? Bằng cách nào?” Tôi đáp lại cậu bằng ánh mắt tò mò.

“Chỉ mình cậu thôi.” Cậu nói. “Tớ chẳng có hứng thú vạch trần bộ mặt của con chuột nhắt đang trốn chui trốn nhủi trong tổ chức, tớ nghĩ sẽ tốt hơn nếu để bố tự tay làm.”

“Tôi á?” Tôi trợn tròn mắt nhìn cậu, còn cậu thì bật cười khoái chí. Giờ thì tôi đã hiểu vì sao cậu lại chờ đợi tôi thắc mắc về nội dung cuộc họp. Cái tên thích làm theo ý mình này… Thật đáng ghét. Tôi có cảm giác như bản thân vừa được giải thoát khỏi cơn ác mộng dài ngày thì lại tiếp tục bị đẩy xuống một vực thẳm tăm tối hơn vậy.

“Để đảm bảo an toàn thì phải tách cậu ra khỏi Emily trước.” Cậu nói tiếp, giả vờ như không thấy tôi đang cáu bẳn. “Từ giờ cậu sẽ làm việc ở khu G, làm gì cũng được.”

“Tôi cứ như bù nhìn hết nơi này đến nơi khác vậy nhỉ?” Tôi lầm bầm trong miệng, chẳng biết là cậu có nghe rõ hay không.

Tôi ắt sẽ là nhân tố đầu tiên của ISH “được phép” chuyển nơi làm việc tận ba lần trong chưa đầy ba tháng nhận việc. Tylar đã tự mình quyết định chuyện này, thậm chí còn dõng dạc tuyên bố sẽ chẳng có ai ngăn cản được cậu. Đột nhiên tôi thấy sợ hãi. Nếu Richard Campbell trở về và trông thấy tôi ngồi chễm chệ trong phòng làm việc của một nhân viên cấp cao, hẳn là ông ta sẽ ngấu nghiến tôi thành từng mảnh.

Tôi nói một cách nhỏ nhẹ với hy vọng cậu ta sẽ đổi ý. “Thôi mà, Tylar…” 

“Chứ cậu có làm gì được đâu? Hay cậu muốn tham gia vào thí nghiệm nhân bản với tớ?” Rất nhanh, cậu nhận ra có gì đó không đúng, bèn vội xua tay. “À, đùa thôi.” Và cậu im lặng.

Bầu không khí trong phòng trở nên khó xử ngay tức khắc. Chúng tôi không nói thêm lời nào. Tôi biết cậu không cố tình, rằng cậu vẫn nhớ rõ tôi chưa bao giờ đồng ý với những thí nghiệm phi pháp, nhưng tôi cũng biết là cậu khó thể – hoặc không biết cách – kiểm soát mấy trò đùa bất chợt của mình.

“Tôi chỉ sợ… khi trở về, bố cậu sẽ trách mắng.” Quả nhiên là không thể cứ thế mà im lặng suốt được. 

“Đừng lo, quyết định của tớ cũng là quyết định của bố mà.” Cậu dừng lại một lúc, rồi vụng về trấn an. “Sẽ không sao đâu.”

Tôi nhìn cậu, gương mặt ưa nhìn đó vẫn chưa bao giờ rời mắt khỏi tôi, nhưng giờ đây đã không còn cười nữa. Dường như cậu vẫn còn thấy khó xử, ngay cả khi tôi đã lên tiếng phá vỡ bầu không khí im lặng. “Nhưng cô Emily không phản ứng gì với quyết định của cậu sao?” Tôi tiếp tục thắc mắc. 

“Có, bà ta vốn đã có sẵn hiềm khích với tớ rồi.” Cậu trả lời. “Nhưng vậy thì sao chứ? Ai quan tâm đâu.”

Lại là cái thái độ bất cần đó. Tôi nghĩ thầm, thà là cậu cứ hành xử như Richard Campbell ngay từ đầu luôn đi, như vậy sẽ khiến người khác yên tâm hơn là đến một ngày nào đó cậu bất chợt thay đổi. 

“Cậu biết vì sao cô ấy ghét cậu không?” 

Cậu đáp lại tôi bằng vẻ mặt chẳng mấy quan tâm, nhưng dường như cũng muốn chờ đợi tôi trả lời. “Vì sao?”

“Vì cậu xử sự chưa tốt.” 

Tôi bắt đầu giải thích cặn kẽ cho cậu về ý nghĩa của khái niệm gọi là “xử sự”, về cái cách cậu hành xử vô lễ với các đồng nghiệp lớn tuổi hơn mình, lẫn thái độ “nhìn đời bằng nửa con mắt” cậu hay thể hiện với những đối tượng mà cậu đánh giá là họ thua kém hơn. Tôi thấy cậu gật đầu liên tục như đã hiểu, lâu lâu lại “a” lên một tiếng rõ dài rồi giải thích là cũng có người từng dặn dò cậu phải cư xử như vậy, nhưng cậu đã vứt sang một bên vì thấy việc đó quá vô nghĩa và không cần thiết. 

Tôi lắc đầu ngao ngán, những điện cực lay động theo rồi lại dính chặt vào da đầu. “Cậu tháo cái này ra giúp tôi với,” Tôi chỉ tay lên trán, khẽ chau mày. “Nói sao nhỉ… thật khó hiểu khi Viện trưởng không dạy cho cậu những điều cơ bản như vậy.”

Cậu không đáp ngay, chỉ mỉm cười và đứng dậy tắt máy điện não đồ, cẩn thận tháo dây kết nối đến điện cực. Tôi nằm im quan sát, thấy cậu đi đến xe đẩy thuốc, chuẩn bị vài miếng bông gòn đã thấm sẵn dung dịch đặt vào khay và mang trở lại giường.

“Không phải là không dạy, mà là đến cả ông ấy dường như cũng không quan tâm đến khái niệm đó.” Cậu giải thích trong lúc tháo những miếng điện cực khỏi đầu tôi. “Những gì bố biết được thì tớ cũng biết được, vậy nên khi đủ tiêu chuẩn để tham gia vào thí nghiệm nhân bản, tớ đã bắt tay vào làm ngay mà không cần đến sự hỗ trợ của bất cứ người nào.”

Cậu nói, đứa trẻ tám tuổi có thể giải được chính xác phương trình Michaelis-Menten mà đồng nghiệp của bố tôi từng trao đổi để hoàn tất bài nghiên cứu - về mối tương quan trí tuệ - giữa nguyên thể với bản sao chính là cậu. Vì sở hữu trí tuệ có liên kết với Richard Campbell mà cậu đã trở thành “con cừu” hoàn hảo nhất trong lịch sử nghiên cứu của ISH và không một thế hệ nào sau đó có thể vượt qua. Cái tên Zero mà mọi người đặt cho cậu cũng xuất phát từ sự kiện này, không chỉ để nhắc cậu nhớ về chức vụ Viện trưởng cậu phải kế thừa, mà còn để cậu không quên bản thân là vị thủ lĩnh “cừu” ưu tú nhất hàng ngũ. 

“Ở thế giới của cậu, bố tớ là một người giàu có và quyền lực, đúng không?” Tôi nhìn cậu, khẽ gật đầu. Cậu nói tiếp. “Vậy cậu nghĩ xem, người như ông ấy có bao giờ quan tâm đến việc nên đối xử với người khác thế nào hay không?”

Tôi bất giác im lặng, bởi không chỉ cậu mà đến cả tôi cũng ngầm hiểu điều đó chẳng bao giờ xảy ra. Thật khó tưởng tượng được rằng, Richard Campbell sẽ chấp nhận “hạ mình” để đối đãi công bằng với những người khác. Có lẽ, chỉ có những ai thật sự mang đến cho Viện trưởng lợi ích mới được phép chứng kiến dáng vẻ khiêm nhường hiếm thấy đó của ông ta mà thôi.

“Nói vậy nghĩa là… cậu muốn học theo ngài ấy?”

Tylar ngớ người ra một lúc, rồi đảo mắt sang nơi khác như muốn lờ đi. Cậu dùng kẹp gắp miếng bông gòn đã thấm sẵn dung dịch, cẩn thận lau chùi những vết gel dẫn điện còn sót lại trên trán và hai bên thái dương tôi. Tôi nhắm mắt, vờ như không quan tâm đến chuyện đó nữa. 

Tôi nghĩ mình đã biết được đáp án của cậu. Không quá ngạc nhiên nếu một “con cừu” thông minh nhận được sự ưu ái ngay từ lúc chào đời – và được dìu dắt bởi nguyên thể[4] – muốn trở thành kiểu người giống như “bản thân”. Tylar có xuất phát điểm lẫn mục đích sống khác biệt với những “con cừu” còn lại trong tổ chức, và xét ở khía cạnh nào đó, cậu thậm chí còn vượt trội hơn cả con người. 

Tôi sẽ không bất ngờ, nếu đến một ngày cậu đột nhiên thay đổi. 

Tiếng kẹp gắp chạm vào khay kim loại khiến tôi giật mình. Tôi hé một bên mắt, thấy cậu đang sắp xếp những miếng điện cực vào hộp bảo quản chuyên dụng, hình như cậu sẽ rời đi ngay bây giờ. Tôi hít một hơi thật khẽ, nhắm mắt lại lần nữa và nghiêng đầu sang phía đối nghịch. Có lẽ, cuộc trò chuyện giữa chúng tôi sẽ luôn rơi vào bế tắc như vậy, nếu tôi chỉ biết thỏa mãn tính cách tò mò của bản thân, còn cậu thì luôn nhắm mắt làm ngơ trước những vấn đề ngoại lệ.

“Đừng im lặng nữa, Andrey.” Cậu bất chợt lên tiếng.

Tôi mở mắt, thấy cậu lại ngồi xuống ghế và nhìn mình bằng ánh mắt buồn bã. Tôi không thể tin, thậm chí còn chẳng biết phải trưng ra bộ mặt thế nào khi trông thấy cảnh tượng lạ lùng đó. “Tại sao lại là tôi chứ?” Tại sao cậu lại buồn bã, khi chính cậu là người đã phớt lờ câu hỏi của tôi trước? Tôi gần như ngồi bật dậy. “Cậu mới là người im lặng mà, Tylar?”

Cậu nhìn tôi, cảm giác trong đôi mắt màu hổ phách quý hiếm ấy như chứa đựng rất nhiều điều mà tôi không thể hiểu. “Vì tớ không biết phải trả lời sao cả, bố nói rằng… đừng bao giờ để người khác biết được suy nghĩ của bản thân.”

“Vậy sao cậu không nói như thế ngay từ đầu? Chỉ cần cậu nói ra thì tôi sẽ không bao giờ hỏi nữa.” Đột nhiên tôi thấy áy náy. Tôi không thể theo kịp suy nghĩ lẫn thái độ của cậu, vậy nên khi đối diện với gương mặt hối lỗi đầy bất an đó, tôi thấy mình ích kỷ khủng khiếp.

“Vì tớ muốn cậu biết,” Cậu vụng về giải thích. “Cậu không tin tớ mà, vậy nên tớ muốn tìm đáp án chính xác nhất để trả lời cậu. Nhưng chưa từng có ai hỏi tớ như vậy cả, dù có nghĩ bao lâu thì tớ vẫn không biết đáp án đó là gì…”

“Tôi tin cậu mà. À… đúng hơn là giờ đây chỉ còn mỗi mình cậu đáng tin thôi.” Tôi ngả người xuống giường, cố nén cơn đau truyền đến nơi mũi kim gắn vào tĩnh mạch, nói tiếp. “Bố cậu nói, tôi đã không còn lựa chọn nào khác từ khi đặt chân lên hòn đảo này, nên tôi không quan tâm ai sẽ lừa dối mình đâu. Gặp người nào thì tôi sẽ tin tưởng người đó, dù có nghi ngờ họ thì cũng chẳng thay đổi được gì. Tôi nghĩ, sẽ tốt hơn nếu tôi ngoan ngoãn bấu víu vào những người mà mình đã gặp. Tin tưởng hay nghi ngờ à? Mặc kệ đi, miễn không chết là được.”

Chỉ cần đừng mất niềm tin ở mình là được, tôi luôn tự nhủ với lòng như thế. Vì cậu nói sẽ giúp tôi và Doris được tự do, nên tôi sẽ tin tưởng cậu. Và tôi sẽ chỉ tin tưởng cậu. Nếu có thể rời đi sớm thì tốt, nhưng nếu không được thì cũng chẳng sao cả. Tôi sẽ cứ sống yên ổn thế này, giữ vững quan điểm của mình và không bao giờ đắc tội với ai. Tôi sẽ ngoan ngoãn trở thành một phần của ISH đúng như điều mà Richard Campbell mong đợi – để được sống và rời khỏi nơi này. 

“Cậu lạc quan thật đấy.” Tylar lại cười, một nụ cười có vẻ chân thật hơn.

“Con người rất giỏi thích nghi mà, chỉ cần còn sống thì hoàn cảnh nào cũng đều vượt qua được thôi.” Và tôi cũng cười. Đó là nụ cười tự nhiên nhất kể từ ngày tôi buộc phải đến đây, rằng trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, tôi đã quên mất mình cũng đang mang trên vai rất nhiều gánh nặng. 

Những cuộc trò chuyện với “con cừu” này luôn khiến tôi bị cuốn vào sự ngây ngô nhưng cũng đầy đe dọa, và cũng đầy bế tắc. Đôi lúc, tôi quên mất mình đã là người đàn ông tròn ba mươi tuổi, là con người “thật” đến từ thế giới bên ngoài. Cũng như cậu, tôi thấy lạ lẫm với mọi thứ bên trong thế giới mà cậu đang sống và cũng không tránh khỏi nỗi tò mò về những bí mật các cậu đang mang. Tôi có cảm giác cuộc sống của tôi sẽ thay đổi, nếu đến một ngày bản thân sẵn sàng đối mặt với những sự thật đằng sau cánh cửa đó. Cuộc sống lừng lẫy của bố đang chờ đợi tôi đến để trải nghiệm. Dẫu biết đây là con đường sai trái, và tôi không thể cứ mặc mình đắm chìm trong nó mãi, nhưng những “con cừu” không có lỗi.

Tôi sẽ bảo vệ các cậu bằng mọi giá, ngay cả khi phải hy sinh cuộc sống ngắn ngủi này.

“Vậy làm thế nào để xử sự tốt?” Cậu hỏi.

“Tôi sẽ dạy cho cậu… tất cả.”


_____

[1] Chất ngoại lai (trong trường hợp này) bao gồm thuốc kháng sinh, thuốc giảm đau và các loại thuốc khác.

[2] Điện não đồ theo dõi và ghi lại các mẫu sóng não, bằng cách sử dụng các miếng dán kim loại phẳng nhỏ được gọi là đin cc và gắn vào da đầu bằng dây.

[3] Cục Quản lý Khoa học và Công nghệ Toàn cầu (Global Science and Technology Authority - GSTA): Là cơ quan quyền lực toàn cầu (hư cấu) chịu trách nhiệm giám sát, điều phối và thiết lập các tiêu chuẩn liên quan đến khoa học và công nghệ. Đồng thời đóng vai trò trung gian giữa các quốc gia, tổ chức nghiên cứu và các tập đoàn để xử lý các rủi ro tiềm tàng từ công nghệ tiên tiến.

[4] Tác giả dùng nguyên thể ở đây là để ám chỉ về mối liên kết kỳ lạ giữa hai bộ não của Tylar và Richard.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout