Khi con càng muốn tránh né điều gì thì số phận chỉ càng đưa đẩy con đến gần nó mà thôi.
"Thành tựu" của bố
Đêm đó, Tylar gọi đến điện thoại nội bộ của nhân viên an ninh túc trực ở tầng ba, nói là có việc gấp cần tôi đến hỗ trợ. Khi nhận được thông báo đột xuất, cô Emily có vẻ không hài lòng, nhưng vì Tylar đang nắm giữ quyền lực cao nhất nên cô ấy đành phải chấp nhận mà không thể thắc mắc gì thêm.
Viện trưởng đã rời khỏi trụ sở cách đây bốn tiếng, tôi nghe loáng thoáng một vài đồng nghiệp thân thiết với trợ lý của ông ta bàn tán rằng, cuộc họp khẩn với các đối tác toàn cầu tại San Francisco sắp tới sẽ tốn rất nhiều thời gian và khả năng cao là rất lâu nữa ông ta mới có thể trở lại. Tôi thấy họ vừa nói, vừa thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng.
Tôi hiểu. Vì cả tôi cũng thế.
Tôi không biết đến khi nào Tylar mới trả tự do cho Dorry, nhưng có vẻ như cậu đã sẵn sàng và chỉ chờ thời cơ thích hợp. Chính điều đó lại càng khiến tôi lo lắng hơn. Tôi là người sẽ đưa Dorry rời khỏi đảo, nên hiển nhiên Richard Campbell sẽ truy lùng tôi bằng mọi giá nếu chẳng may kế hoạch bị bại lộ. Không. Chắc chắn kế hoạch sẽ bại lộ, chỉ là không biết lúc nào sẽ bại lộ mà thôi.
Tôi có thể hình dung ra cơn thịnh nộ của Richard Campbell nếu ông ta biết tôi đã đưa “kỳ vọng” của mình chạy trốn. Từ cuộc trò chuyện ban chiều với phần thắng nghiêng hẳn về phía ông ta, tôi chắc chắn mình sẽ không có cơ hội nhận được sự tha thứ dù bản thân có là con trai của người bạn mà ông tin tưởng. Nhưng, liệu ông ta có nghi ngờ Tylar không nhỉ? Cậu ấy thật sự đã che giấu toan tính của mình rất tốt, nhưng bí mật này có kéo dài được lâu hay không?
Tôi gác qua những lo lắng trong lòng, cẩn thận sắp xếp lại hồ sơ trên bàn và xin phép cô Emily một lần nữa. Cô không trả lời, mà hình như cũng chẳng muốn quan tâm. Tôi biết cô không vui nên nhanh chóng rời khỏi phòng, giải trình với nhân viên an ninh ở bàn trực rồi đi vào thang máy.
Tylar hẹn tôi ở phòng làm việc của cậu ấy ở tầng mười ba trên mặt đất – khu G. Theo như tôi được biết, mỗi nhân viên nghiên cứu cấp cao đều được cấp một phòng làm việc riêng ở khu G để tiện cho việc nghỉ ngơi và giải quyết những vấn đề sổ sách. Vì tính chất công việc yêu cầu phải gắn bó xuyên suốt với phòng thí nghiệm nên họ không thường ở yên một chỗ và theo dõi qua màn hình như tôi hay cô Emily. Ngoại trừ Tylar thì các nhà nghiên cứu khác ở cùng cấp bậc cũng không được phép đặt chân đến khu A nếu không có trường hợp nào khẩn cấp.
Khi tôi đến nơi thì đồng hồ đã điểm tám giờ bốn mươi lăm phút tối. Các phòng làm việc đa số đều đã tắt đèn, chỉ có một vài phòng ở cuối dãy vẫn còn chút ánh sáng le lói hắt qua khe cửa. Không gian yên tĩnh đến mức có thể nghe thấy cả tiếng bước chân tôi vang vọng, hòa trong âm thanh đều đặn của hệ thống điều hòa.
Tôi đã mất đâu đó khoảng nửa tiếng chỉ để di chuyển bằng thang máy từ tầng ba khu A lên tầng mười ba khu G. Thay vì cứ đi thẳng một mạch đến nơi thì thang máy luôn tự động dừng lại ở những nơi có nhân viên an ninh túc trực, hiển nhiên là họ không thể tin tưởng vào tấm thẻ thông hành bị giới hạn khu vực cùng những lời giải thích vô căn cứ nên Tylar cũng bị kéo vào những cuộc điện thoại chất vấn của họ.
“Cậu đến muộn hơn tớ nghĩ đấy.” Tylar nói trong lúc mở cửa cho tôi vào.
“Tôi phải giải trình với những người ở quầy kiểm soát… hình như họ không tin tưởng tôi thì phải?”
“Không đâu, đó là quy định từ trước đến giờ rồi.” Cậu mỉm cười. “Đừng lo, tớ sẽ làm cho cậu một tấm thẻ thông hành mới.”
Cậu nói bản thân cũng thấy phiền phức khi phải nhận những cuộc gọi liên tiếp để xác minh về vấn đề đột xuất, nhưng điều khiến tôi quan tâm hơn tất thảy là những lời trước đó của cậu. Thẻ thông hành là tấm thẻ đặc biệt chỉ được cấp cho những cá nhân nhận được sự tin tưởng tuyệt đối bởi Viện trưởng. Thông thường, Richard Campbell sẽ chỉ dựa vào thời gian làm việc và những cống hiến cho tổ chức để cấp thẻ thông hành. Vậy mà Tylar lại nói về điều này khá dễ dàng, như thể chỉ cần cậu muốn thì không có gì mà cậu chẳng làm được.
“Cậu làm được à?”
“Tại sao không?” Cậu đáp. “Bây giờ tớ là Viện trưởng cơ mà?”
Tôi hơi khựng lại, ánh mắt vẫn không rời khỏi gương mặt bình thản của cậu ta. Hai từ “Viện trưởng” được dùng để chỉ chính bản thân mình mà chẳng hề do dự, như thể cậu đã luôn sẵn sàng cho thời khắc chuyển giao này. Và tôi đoán là cậu đang rất vui vẻ tận hưởng thứ quyền lực đó với toan tính của riêng mình.
“Lần này khác lần trước sao?” Tôi tò mò. “Ý tôi là Viện trưởng cũng vắng mặt trong những ngày đầu tôi đến đây, nhưng so với lần này thì hình như có gì đó hơi khác nhỉ?”
“À, tùy vào từng mức độ mà bố tớ sẽ có biện pháp giải quyết phù hợp.” Cậu giải thích. “Lần trước ông ấy chỉ đi để ký kết hợp đồng nên vẫn có thể giám sát mọi công việc mà tớ đã báo cáo, còn lần này hình như phải gặp nhiều người và có nhiều việc phải làm hơn nên ông ấy đã giao lại cho tớ toàn bộ trách nhiệm.”
“Toàn bộ trách nhiệm luôn à?”
Cậu gật đầu. “Bố tớ sẽ không bao giờ trao quyền lực cho những người mà ông ấy không chắc chắn về năng lực. Lần này cũng vậy, bố hoàn toàn tin tưởng ở tớ và sẽ không can thiệp vào những gì tớ sẽ làm. Tớ có thể tự do ra quyết định mà không cần sự phê duyệt nào cả.” Cậu dừng lại một lúc, rồi nói tiếp. “Nhưng tất nhiên tớ sẽ bị khiển trách nếu có sơ suất nào đó xảy ra.”
“Vậy cậu có định để Dorry đi ngay lúc này không?”
Cậu nhìn tôi, ngẫm nghĩ gì đó rồi lên tiếng. “Tớ rất muốn để cậu ấy rời khỏi đây, thật ra… bất cứ khi nào bố tớ vắng mặt thì khi đó đều là cơ hội tốt. Nhưng tớ cần thêm thời gian để chắc chắn là cậu ấy vẫn ổn, ngay cả khi không cần dùng thuốc và cũng không còn tớ bên cạnh.”
Tôi có thể hiểu nỗi lo lắng trong lòng cậu. Không chỉ Dorry, mà những “con cừu” khác cũng khó thể sống một mình nếu không có sự đảm bảo từ phía chuyên gia. Bởi cơ thể lẫn quá trình phát triển của họ đều phụ thuộc hoàn toàn vào thuốc men và điều kiện môi trường. Dù sinh ra với mục đích gì thì họ cũng không thể thích nghi với thế giới bên ngoài mà không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng.
Tylar từng nói, vì là sản phẩm bước ra từ thí nghiệm nhân bản nên những bản sao – kể cả cậu, luôn phải gánh chịu một nỗi đau dai dẳng suốt đời mà không có bất cứ liều thuốc nào có thể giảm bớt. Đó không chỉ là nỗi đau đớn về mặt thể xác, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần. Dù được gọi là phiên bản hoàn hảo, nhưng thực chất bên trong các cậu vẫn luôn tồn tại những lỗi đặc trưng do sai sót trong quá trình thí nghiệm mà không ai phát hiện ra. Vậy nên cậu luôn buộc mình phải tìm kiếm một con đường khác để cứu lấy bản thân và đồng loại, dù điều đó có thể khiến cậu phải đánh đổi rất nhiều.
“Nhưng… tớ không thích cái tên Dorry đó chút nào. Cậu đừng học theo bọn họ mà gọi tên cậu ấy như vậy.”
“Không thể gọi cậu ấy là Dorry sao?” Tôi không thể không thắc mắc. “Chính bố tôi đã gọi cậu ấy bằng cái tên đó…”
“Cậu không thấy nó giống với tên của ai à?” Cậu nhìn tôi. “Dorry… rõ ràng là họ chỉ đang mỉa mai cậu ấy, giống như khi gọi tớ là Zero vậy. Họ chỉ muốn bọn tớ không quên xuất phát điểm của mình mà thôi.”
“Dorry…” Tôi lặp lại. “Dolly? Ý cậu là cái tên này giống với tên của con cừu đó?”
Cậu khẽ gật đầu. “Phải. Họ gọi cậu ấy là Dorry, vì muốn cậu ấy sẽ không quên bản thân là “con cừu” thứ hai và là con người đầu tiên được chào đời bằng nhân bản vô tính.”
Một bên là sự chào đời của con cừu đã đánh dấu cột mốc quan trọng trong lịch sử khoa học, cũng đồng thời là mồi lửa cho những tranh cãi xoay quanh vấn đề đạo đức suốt hơn một trăm năm. Một bên lại là con người được “sinh ra” từ nền tảng của sự thành công rực rỡ trước đó, cũng đồng thời là khởi nguồn cho những tranh cãi lẫn hệ lụy nguy cấp về sau. Với bố tôi hay những nhà khoa học làm việc ở nơi này, Dorry luôn được đánh giá như một thành tựu vẻ vang, dù cậu ta là một bản lỗi. Nhưng với thế giới ngoài kia, sự tồn tại của cậu ta là một mối đe dọa. Và vì biết rõ điều đó nên các tổ chức quốc tế mới luôn đưa ra những đạo luật nghiêm cấm tiến hành thí nghiệm nhân bản để ngăn chặn tai họa.
Trên thực tế, chúng tôi đều biết rõ tai họa ấy đã ngầm xảy ra, nhưng không ai biết phải giải quyết thế nào nếu đến một ngày tai họa ấy chính thức được công bố. Vấn đề đạo đức đóng vai trò then chốt trong việc phản đối các thí nghiệm nhân bản, nhưng cũng là rào cản lớn nhất trong việc giải quyết sự tồn tại của những bản sao. Không có giải pháp nào tốt hơn giải pháp nào, và đó vẫn luôn là câu hỏi chưa bao giờ có lời giải đáp thỏa đáng.
“Tylar… thật ra cậu rất ghét con người đúng không?” Tôi nhìn thẳng vào mắt cậu. “Tôi đã luôn muốn hỏi cậu như vậy, kể từ khi gặp cậu ở thang máy và cậu hỏi tôi có thích những con cừu ngoan ngoãn hay không…”
“Cậu vẫn còn nhớ à?” Cậu tròn mắt ngạc nhiên. “Tớ không nghĩ là cậu vẫn để ý đến những lời đó, nhưng tớ không ghét cậu, nếu ghét thì tớ đã không gọi cậu đến đây rồi.”
“Vậy còn người khác thì sao?”
Cậu im lặng trong thoáng chốc. Tôi không biết cậu đang ấp ủ điều gì trong đầu, nhưng ánh mắt cậu đã không nói dối, bởi nó giống hệt như cái ngày đầu tiên tôi và cậu gặp nhau, vẫn kỳ lạ và đầy rẫy phức tạp.
“Tớ không biết, nếu họ không làm hại đến tớ thì tớ cũng chẳng có lý do gì để ghét họ cả…” Cậu nói. “Nếu chỉ ghét vì họ đã tạo ra bọn tớ thì không hợp lý lắm, vì tớ cũng đang làm như vậy mà.”
Cái cách cậu nói trông thật bình thản, nhưng tôi biết là con người cậu chưa bao giờ đơn giản như thế. Thay vì nói không, cậu đã nói rằng mình không biết. Nghĩa là cậu sẽ đáp trả nếu ai đó khiến cậu cảm thấy bị đe dọa. Nhưng ít nhất thì tôi thấy an tâm, bởi điều này không phải là thù ghét mù quáng, mà chỉ là một cách thức để bảo vệ bản thân và bảo vệ chính các đồng loại của mình. Đó là bản năng nguyên thủy của vạn vật – tôi, cậu hay bất cứ ai – nếu bị dồn vào đường cùng thì cũng buộc phải hành xử như vậy thôi.
“Vậy chúng ta đến gặp cậu ấy bằng cách nào?” Tôi quyết định chuyển chủ đề trước khi bầu không khí trong phòng trở nên căng thẳng. “Chẳng phải cứ hẹn nhau ở tầng bảy sẽ nhanh hơn sao?”
“Không, chúng ta sẽ xuống tầng bảy bằng thang máy trong phòng tớ.” Cậu giải thích. “Sẽ rất nguy hiểm nếu để ai đó phát hiện.”
“Vậy cũng được á?”
Tôi có cảm giác những việc mà Tylar đã làm dưới “thân phận” Viện trưởng đã hoàn toàn vượt xa những gì Richard Campbell có thể tưởng tượng. Tôi không biết còn bao nhiêu bí mật cậu chưa tiết lộ, nhưng bất cứ điều gì cậu cho phép tôi được biết thì điều đó luôn khiến tôi phải cảm thấy bất ngờ.
“Đương nhiên rồi. Tớ toàn đến gặp cậu ấy bằng cách này thôi. Thay vì phải làm thủ tục xác minh với thiết bị nhận dạng ở đó thì chúng ta sẽ đi con đường này.” Cậu nói một cách vui vẻ. “Cậu biết không, đây là con đường duy nhất có thể đi vào bên trong tầng bảy mà không cần phải thực hiện những quy trình phức tạp như vậy.”
“Gì chứ? Vậy là chỉ có mình cậu thôi á?”
“Ừ, vì tớ là Viện trưởng mà. Bố sẽ không ở đây xuyên suốt, nhưng tớ thì có. Tớ biết rõ mọi đường tắt của nơi này nên sẽ không có ai thoát khỏi tầm mắt của tớ đâu.”
Vậy nên tôi mới luôn gặp cậu trước đó, dù chú Fred lẫn cô Emily đều nói sẽ rất khó để gặp được những nhân viên cấp cao. Ban đầu, tôi còn nghĩ việc đó chỉ là tình cờ, nhưng có lẽ chính cậu đã thu xếp tất cả.
“Cậu nói việc cậu làm là giám sát và báo cáo lại cho Viện trưởng,” Tôi thắc mắc. “Nghĩa là sẽ không có ngoại lệ nào sao?”
“Không, tớ không bao che cho cá nhân nào cả.” Cậu vừa nói, vừa chỉ tay về phía tủ sách cao lớn sau bàn làm việc. Tôi theo cậu đến đó trong lúc chờ đợi cậu tiếp tục cuộc trò chuyện còn đang dang dở. “Dù tớ có kế hoạch riêng, nhưng bấy nhiêu đó chưa đủ để khiến tớ trở thành một kẻ phản bội. Tớ vẫn luôn là tớ, là thủ lĩnh của những “con cừu” và sẽ không bao giờ đẩy bố vào nguy hiểm.”
Tương tự như điều cậu từng nói trước đó rằng cậu sẽ không bao giờ vạch trần tội ác của ISH hay để lộ những sơ hở gây bất lợi cho Richard Campbell. Dù là bản sao của đứa con trai mà Viện trưởng chưa từng công khai danh tính, nhưng não bộ của cậu lại có liên kết trực tiếp với ông ta, chính vì vậy nên cậu luôn tự nhắc nhở mình phải sống cuộc đời hệt như Viện trưởng và không được phép quên đi trọng trách của mình.
Zero là cái tên có nguồn gốc từ thế hệ thử nghiệm đầu tiên của ISH. Có thể hiểu rằng, những bản sao chào đời trong khoảng thời gian từ năm 2100 đến năm 2105 đều được gọi chung là thế hệ Zero, tương tự với thế hệ thứ nhất, thứ hai sau này. Tylar giải thích rằng, vốn dĩ nhóm thế hệ thử nghiệm được gọi là “không” vì ban đầu chúng được tiến hành nghiên cứu như một “bản nháp” để tính toán xác suất thành công của dự án. Nghĩa là, dù thí nghiệm nhân bản này có thành công hay thất bại thì cũng đều được xem như một bước đệm tiền đề để tiến hành những nghiên cứu tiếp theo.
Vậy nên, thế hệ Zero là thế hệ duy nhất không bị tiêu hủy dù mang nhiều sai sót không thể khắc phục, thay vào đó những “con cừu” ở thế hệ này sẽ tồn tại dưới danh nghĩa “vật tế” cho những dự án nghiên cứu trọn đời hoặc được giao thực hiện các trọng trách đặc biệt. Và trong lịch sử của ISH, Tylar – “con cừu” duy nhất bước ra từ thế hệ Zero – là bản sao hoàn hảo nhất trong mọi thế hệ được chào đời. Trong khi đó, Dorry được đánh giá là ”con cừu” có nhiều lỗi sai nhất, nhưng cũng đồng thời là “con cừu” tồn tại lâu nhất với tuổi đời vượt trên những bản sao hoàn hảo ở các thế hệ sau.
“Cũng đúng…” Tôi lẩm bẩm trong lúc quan sát cậu. “Nếu để một người thông minh như cậu trở thành kẻ phản bội thì sẽ rắc rối lắm.”
“Nhưng nếu có một người thông minh như tớ trở thành bạn thì sẽ yên tâm lắm, đúng không?” Cậu lại cười với tôi, nhưng nụ cười đó chưa bao giờ khiến tôi bớt dè chừng.
Thật khó để phân biệt tốt, xấu trong mỗi nụ cười mà cậu thể hiện ra. Thú thật là tôi sợ những người như cậu. Những người hay cười và giỏi che giấu cảm xúc tệ hại của bản thân. Những người mà tôi sẽ chẳng bao giờ hiểu được họ thật sự nghĩ gì, càng không thể xé nát lớp mặt nạ hoàn hảo bên ngoài để nhìn thấu những toan tính sâu thẳm. Cậu chưa từng đe dọa hay tỏ vẻ nguy hiểm với tôi, nhưng chính sự bình thản đến lạ lùng trong từng lời nói và hành động của cậu đã khiến tôi không thể không cảnh giác. Tôi buộc phải như vậy, không phải vì cậu là người xấu, mà là vì con người cậu thật sự quá khó đoán.
“Có lẽ… thế.” Tôi buột miệng thốt ra khi ánh mắt cậu dừng lại nơi tôi để chờ đợi câu trả lời.
Tylar không phản ứng ngay, dường như cậu đã nhận ra lời hồi đáp có phần gượng ép. Chúng tôi không nói thêm lời nào nữa. Cậu quay người về phía bàn làm việc, tay lướt qua mặt gỗ bóng loáng rồi di chuyển xuống mép bàn, nhấn nhẹ vào công tắc nhỏ được thiết kế giấu kín.
Một tiếng cạch khẽ vang lên, cùng lúc tủ sách đối diện tôi bắt đầu chuyển động. Từng ngăn kệ chậm rãi tách ra làm đôi theo chiều dọc và trượt dần về phía hai bên tường. Khoảng cách giữa hai tủ sách là một cửa thang máy được làm từ hợp kim sáng bóng đủ để ba, bốn người đi vào. Tôi thấy cậu chỉ tay về phía đó và bảo mình hãy nhanh chóng vào trong.
“Viện trưởng có biết con đường này không?” Tôi hỏi trong lúc bước vào.
“Có chứ, ông ấy đã thiết kế riêng cho tớ đấy.” Cậu trả lời. “Nhưng mục đích ban đầu là để thoát hiểm trong trường hợp nguy cấp, sau đó tớ đã làm việc với một kỹ sư thân cận của bố để mở thêm vài con đường nữa.”
“Nghĩa là tầng bảy không phải nơi duy nhất cậu có thể đến bằng thang máy?”
“Phải, tớ đã cố liên kết mọi nơi trọng yếu của trụ sở để tiến hành xây dựng nó trong thời gian dài, hình như mất đâu đó tầm năm năm đấy.”
Cậu nói mình đã tận dụng mọi thời điểm Viện trưởng không có mặt ở trụ sở để tiến hành cải tiến con đường nguyên bản. Đồng thời cũng tốn rất nhiều công sức lẫn tài nguyên để qua mắt những nhà nghiên cứu có mặt tại nơi này. Dù rất khó khăn nhưng rất may là nó đã hoàn thành suôn sẻ vì người kỹ sư ấy khá am hiểu thiết kế của trụ sở.
“Tôi vẫn không hiểu vì sao người đó lại đồng ý giúp cậu, ông ấy không hỏi ý kiến của Viện trưởng trước à?!”
“Vì tớ đã đe dọa ông ấy.” Cậu cười. “Mọi người đều nói tớ là Richard Campbell phiên bản trẻ, điều đó là sự thật đấy. Tuy tớ là bản sao của Tylar, nhưng bộ não mà tớ đang mang lại có liên kết chặt chẽ với Richard. Vậy nên quá khứ của bố mới là quá khứ thật sự của tớ, còn Tylar, tớ chẳng có ký ức gì cả…”
“Vậy thì cậu có khác gì ngài ấy đâu, khó hiểu thật đấy…”
Tylar vẫn không nói gì về can thiệp trong quá khứ khiến não bộ của cậu ấy có liên kết trực tiếp với Richard Campbell. Tôi biết là các bản sao luôn có cùng một ký ức với nguyên thể – từ lúc nguyên thể được sinh ra cho đến khi tế bào gốc được thu thập – nhưng trong trường hợp của Tylar, thay vì có cùng ký ức với “bản thân” thì cậu ta lại có cùng ký ức với thân sinh của “chính mình”. Vì cậu nói đã có can thiệp nên ít nhiều tôi cũng đoán được sự thật đằng sau, nhưng nếu cậu không muốn tiết lộ thêm thì tôi cũng chẳng có lý do gì để tiếp tục thắc mắc.
“Cậu muốn nghĩ tớ là ai cũng được, nhưng thay vì gọi là Richard hay Zero, thì tớ vẫn thích cái tên Tylar này hơn.”
Nếu cậu thích thì tôi sẽ chỉ gọi cậu như vậy.
Chúng tôi không nói gì thêm. Không gian trở nên yên ắng đến mức tôi có thể nghe thấy cả tiếng tim đập trong ngực mình. Thang máy di chuyển chậm hơn loại thông thường, hơn nữa, cứ xuống được tầm ba, bốn tầng thì sẽ có một tiếng động khẽ hệt như tiếng kim loại va chạm vang lên. Bảng nút bấm cũng không chỉ có mỗi số tầng, mà còn có cả ký hiệu đặc biệt và nút bấm chữ tượng trưng cho từng khu vực. Tôi không hiểu cách vận hành, nhưng dựa theo lời Tylar nói, có lẽ công dụng của nó không đơn giản chỉ là vận chuyển lên, xuống như những thang máy mà tôi thường gặp.
Bỗng dưng tôi thấy ngột ngạt, đúng hơn là vì đứng cạnh Tylar nên tôi thấy ngột ngạt. Cậu đứng tựa lưng vào thang máy, nhưng vẫn cao hơn tôi, mắt nhắm hờ như đang mệt mỏi.
“Cậu không khỏe à?” Tôi liếc nhìn cậu, rồi lập tức quay đi.
“Tớ… buồn nôn quá…” Cậu đáp, giọng yếu ớt một cách kỳ lạ. “Vì đột nhiên cậu im lặng nên…”
“Đừng nói là cậu bị say thang máy nhé?” Tôi mím chặt môi, cố nén một nụ cười bất chợt, nếu để cậu ta bắt gặp thì sẽ nguy to mất.
Trường hợp này không phải hi hữu, bởi ngày trước tôi cũng có một người bạn gặp tình trạng tương tự. Nhưng nếu xét ở vị trí của Tylar thì có vẻ hơi khó tin nhỉ? Một người như cậu – một “con cừu” được cho là ưu tú nhất mọi thế hệ – lúc nào cũng tỏ ra điềm tĩnh, mang dáng vẻ đầy quyền lực và khả năng kiểm soát tất cả lại có một điểm yếu kỳ quặc đến mức này.
“Bố từng nói… cái gì say được thì tớ đều say hết… vì ông ấy cũng bị như vậy…” Thang máy tiếp tục trượt xuống, tôi để ý thấy cậu vừa nói vừa bám vào tay vịn phía sau để trụ vững.
“Lần trước gặp nhau, trông cậu vẫn bình thường mà nhỉ?”
“Nếu đi một đoạn ngắn thì tớ vẫn chịu được… Hơn nữa, lần đó tớ cũng phải ra ngoài để bắt chuyện với cậu đó thôi…” Cậu đáp, trông có chút đau khổ.
Tôi không nhịn được cười khẽ, nhưng cũng mau chóng im bặt khi thấy Tylar cúi người như muốn nôn thật. “Trông cậu giống con người hơn rồi đấy,” Tôi lẩm bẩm.
Thang máy dừng lại tại một góc khuất nằm trong điểm mù của camera giám sát ở tầng bảy, đúng như lời cậu nói, chúng tôi thật sự đã ở trong khu vực “phòng giam” thay vì phải đi qua thiết bị nhận dạng như thường lệ. Không đợi thêm bất cứ giây phút nào, Tylar vội vã bước ra ngoài khi cánh cửa vừa mở, như thể chỉ muốn thoát khỏi không gian ngột ngạt ấy ngay tức khắc.
Cậu thở hắt một hơi, tay vịn vào tường giữ thăng bằng. “Cậu nói giống con người là sao chứ? Họ cũng say thang máy à?”
“Chỉ số ít thôi, nhưng quan điểm của tôi là nếu hoàn hảo quá thì không giống con người.” Tôi theo sau cậu, đáp. “Quả nhiên là phải có điểm yếu nhỉ…?”
Dù hai bên vẫn là những “phòng giam” bằng thép đóng kín nối tiếp nhau, nhưng có vẻ dãy hành lang này không giống với dãy hành lang mà ngày trước tôi từng đi qua. Nó tối hơn, lạnh lẽo hơn và hình như cũng chẳng có dấu hiệu nào của nhân viên giám sát, nhưng ít nhất cũng không khác biệt mấy, bởi camera vẫn luôn được bố trí rất nhiều.
“Nhiều camera như vậy sẽ không sao chứ?”
“Đừng lo, trợ lý của tớ sẽ đảm nhận việc này.”
Cậu nói, trợ lý của cậu sẽ nhận nhiệm vụ xử lý những hình ảnh bất thường được thu thập trước khi chúng xuất hiện trên màn hình giám sát của nhân viên an ninh. Đó là một phương pháp thường thấy trong các tổ chức tội phạm khét tiếng chuyên dùng để can thiệp vào các đoạn hình ảnh trong thời gian thực. Cụ thể, trong những thời điểm nhất định – khi Tylar đến – các camera giám sát ở khu vực này sẽ tự động lặp đi lặp lại một hình ảnh trước đó khiến nhân viên an ninh không thể phát hiện bất cứ hoạt động bất thường nào đang diễn ra. Nhưng cậu cũng giải thích thêm, thủ thuật này chỉ thật sự được áp dụng khi cậu đến đây thông qua con đường này – chỉ khi cậu biết rõ nơi mình muốn đến, mục đích mà mình muốn thực hiện, cũng như đủ khả năng để kiểm soát mọi rủi ro xảy ra trong thời gian đó.
“Nhưng… ông chú bên an ninh mà mọi khi tôi hay gặp cũng là đồng minh của cậu phải không?” Tôi bước lên ngang hàng, hỏi.
“À, phải đấy. Chú ấy đã làm việc ở đây lâu lắm rồi, khi nào nhỉ? Tầm này…” Cậu ngẫm nghĩ, tay đưa ra trước làm động tác ước chừng đến ngang bụng. “Khi tớ bằng tầm này thì chú ấy đến nhận việc.”
“Vậy chú ấy có biết chúng ta lén tới đây không?”
Cậu không trả lời ngay.
Thông thường, ngoài thiết bị nhận dạng ở bên ngoài cửa chính, các nhân viên an ninh vẫn phải thay nhau giám sát tình hình bên trong để đảm bảo không có bất trắc gì xảy ra. Điều này đã luôn là một phần quan trọng trong quy trình bảo mật nghiêm ngặt của Viện nghiên cứu. Tôi nhớ rất rõ – khi còn nhận nhiệm vụ mang thức ăn đến cho Dorry – vào khung giờ này mỗi tối luôn có ít nhất ba nhân viên túc trực ở điểm giao nhau giữa các hành lang để đảm bảo an toàn. Vậy mà hôm nay, không khí dường như có gì đó khác hẳn.
Hành lang im lặng một cách bất thường, tôi không cảm nhận được bất cứ dấu hiệu nào của con người ở xung quanh, chỉ có tiếng bước chân của tôi và Tylar vẫn vang lên đều đặn trên nền gạch lạnh lẽo.
“Không, tớ không nói.” Cậu đột nhiên cất lời khiến tôi giật thót. “Tớ không muốn kế hoạch của mình làm ảnh hưởng đến công việc của người khác.”
“Sao cậu cứ đợi đến lúc căng thẳng mới chịu lên tiếng vậy hả?” Tôi đưa một tay đè lên ngực và nói với giọng trách móc.
Cậu nghiêng đầu nhìn tôi, mặt điềm nhiên như chẳng có vẻ gì là hối lỗi. “Cậu sợ bị phát hiện sao?” Tôi khẽ gật đầu, cậu nói tiếp. “Nếu đi cùng tớ thì không ai dám trách mắng cậu đâu. Dù khi bố trở về, có thể tớ sẽ bị khiển trách, nhưng tớ nhất định sẽ không để ông ấy nặng lời với cậu một lần nữa.”
Cậu tiếp tục đi về phía trước, tôi cũng mau chóng theo sau. Dãy hành lang vẫn kéo dài vô tận, nhưng tôi thấy mình đã yên tâm hơn chút. Thật ra, nếu nói chỉ sợ bị phát hiện thì chưa đủ, vì nỗi bất an trong tôi thậm chí còn to lớn hơn cả vậy. Tôi sợ nếu ai đó phát hiện việc cậu có toan tính, nếu Richard Campbell biết được cậu đã không còn là người duy nhất ông ta có thể tin tưởng thì kế hoạch này sẽ khó thể thành công. Tôi muốn rời khỏi đây, dù để tự do hay để vạch trần những tội lỗi, thì ít nhất tôi vẫn có thể giúp cậu đưa Dorry theo cùng nếu kế hoạch không bị bại lộ.
Tôi sẽ giúp cậu ta được sống một lần nữa, theo đúng ý cậu và tôi cũng sẽ không hóa thành một lưỡi dao sắc bén để khiến cậu tổn thương. Đó là điều duy nhất tôi có thể làm. Và đó cũng là điều duy nhất tôi nhất định phải làm.
Tôi mải bận rộn với những suy nghĩ thầm kín trong đầu, đột nhiên, cậu quay phắt lại nhìn tôi và lên tiếng. “Từ giờ hãy gọi cậu ấy là Doris. Nếu để tớ phát hiện cậu lén gọi cậu ấy là Dorry hay Henry gì đó thì tớ sẽ nhốt cậu vào đây đấy,” Cậu chỉ tay về phía những căn phòng đóng kín và mỉm cười. Một lời đe dọa có phần đùa giỡn nhưng vẫn khiến tôi phải bất giác rùng mình.
Thú thật là nó chẳng vui chút nào đâu, thưa Viện trưởng Tylar.
“Cậu ấy biết chúng ta đến đây đúng không?” Tôi vội lảng sang vấn đề khác.
“Ý cậu là gì?” Cậu nhìn tôi bằng ánh mắt ngạc nhiên.
“Cậu ấy luôn nghe thấy những âm thanh bên ngoài mà, nếu nghe tiếng bước chân thì hẳn là cậu ấy cũng sẽ đoán được ai đang đến chứ?” Tôi giải thích, nhưng chỉ thấy cậu tròn mắt và bày ra vẻ mặt khó hiểu.
“Cậu nghĩ cậu ấy là quái vật à?” Cậu hơi cúi đầu, tay day nhẹ thái dương. “Âm thanh có thể truyền qua môi trường chân không sao?” À, thì ra cậu chỉ đang vụng về che giấu nụ cười trước sự ngớ ngẩn của tôi mà thôi.
Tôi im lặng. Tôi chẳng biết phải phản bác lại thái độ của cậu bằng cách nào khi chính “đồng minh” của cậu đã nói với tôi những lời như thế. Thật ra tôi vốn đã nghi ngờ điều này, nhưng chú Fred nói rằng mọi chuyện đều có thể xảy ra bên trong Viện nghiên cứu nên tôi đã chẳng thèm bận tâm. Âm thanh không thể truyền qua môi trường chân không, đến cả tiến hóa siêu phàm cũng không thể vượt qua ranh giới đó, đây mới là sự thật.
“Đã bảo đừng tin lời người khác nói rồi mà.” Cậu vẫn cúi đầu, như đang cố nén một nụ cười thật sự. “Những thông tin đó là tớ bịa đặt đấy.”
Tôi rất muốn nói với cậu rằng, thà cậu cứ cười đểu tôi còn hơn. “Vậy là cậu đã nói dối mọi người, kể cả Viện trưởng?” Quả nhiên là không thể cứ vậy mà nói thẳng được.
“Nếu nói dối để bảo vệ cậu ấy thì vẫn chấp nhận được mà…” Cậu nhanh chóng lấy lại vẻ nghiêm túc vốn có. “Khi nhận được lệnh tiêu hủy Doris, điều duy nhất tớ có thể nghĩ là phải cứu sống cậu ấy, vậy nên tớ mới phải nói như vậy.”
“Nhưng Viện trưởng đã tin cậu, một người tài giỏi như ông ấy cũng bị đánh lừa sao?”
“Thay vì nói bị lừa, thì đúng hơn là ông ấy chủ quan.” Cậu nói, như thể ngay chính thời khắc ấy cậu đã lường trước được tất cả. “Vì người đưa ra thông tin là tớ, người chứng minh sự thật cũng là tớ nên ông ấy mới tin tưởng. Đứng trước một bản báo cáo dài năm mươi trang với những “bịa đặt” không thể hợp lý hơn về tiến hóa siêu phàm được chuẩn bị vô cùng kỹ lưỡng, cậu có thể nghi ngờ “chính mình” hay không?”
“Ra là vậy…” Tôi nói khẽ. “Cậu đáng sợ thật đấy.”
Cậu nhìn tôi, rồi bất chợt bật cười. “Tớ sẽ không nói dối cậu đâu, đừng lo.”
Chúng tôi đi tiếp cho đến khi gặp một hành lang lớn cắt ngang, và tôi mau chóng nhận ra, đó mới chính là con đường mọi khi mình vẫn thường hay đến. Nhưng tuyệt nhiên vẫn không có lấy một bóng dáng của bất kỳ nhân viên an ninh nào. Chúng tôi rẽ trái, đi về căn phòng cuối dãy. Tôi ước chừng có khoảng năm, sáu căn phòng tính từ ngã rẽ mình vừa bước ra đến nơi Dorry bị giam cầm.
Tylar đến trước “phòng giam”, cẩn thận nhấn vào nút bấm bên trên cánh cửa. Cảm giác hồi hộp trong tôi lại bắt đầu trỗi dậy. Tôi sợ phải đối diện với Dorry, hay nói đúng hơn là sợ phải đối diện với “người” mà bố tôi luôn nhắc đến.
Cánh cửa bật mở, và Tylar cất lời. “Lâu rồi không gặp, Doris.”
Tôi theo sau cậu ấy, khi vừa bước qua cánh cửa thép nặng nề thì chạm mắt với người ở bên trong. Cánh cửa từ từ khép lại sau lưng, như muốn tách biệt chúng tôi hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài.
Dorry – à không, từ giờ phải gọi là Doris – đang ngồi dưới sàn, tựa lưng vào tường và nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên. Ánh đèn trần chiếu xuống một cách lạnh lẽo khiến hình ảnh cậu ta trong phòng giam trắng xóa càng trở nên mờ nhạt. Tôi dừng mắt nơi cậu trong thoáng chốc, lòng khẽ dâng lên một cảm giác lạ lùng.
Doris gầy hơn rất nhiều so với tưởng tượng của tôi, da trắng bệch, tóc vàng nhạt cùng đôi mắt màu đại dương thiếu sức sống. Cậu ta không nói gì ngay, chỉ ngồi đó, nhìn tôi bằng ánh mắt bất ngờ, như thể cậu không nghĩ mình sẽ gặp được ai khác ngoài Tylar.
Phòng giam nhỏ bé và tối giản đến mức ngột ngạt, nhưng rất sạch sẽ. Những thiết bị máy móc được sắp xếp ngăn nắp, nằm im lìm xung quanh như đang lặng lẽ quan sát từng hành động của tất cả chúng tôi. Đột nhiên tôi thấy choáng váng.
Tylar huých nhẹ vào tay tôi. “Chào… Doris,” Tôi chỉ thốt ra một câu ngắn ngủi như thế rồi im lặng, cảm giác nơi cổ họng như có thứ gì đó bóp nghẹt vào, đúng hơn là tôi thấy khó thở. Hình như, những “triệu chứng” lại bắt đầu xuất hiện.
Doris nhìn tôi thêm một lúc, rồi dời mắt về phía Tylar như thể chờ đợi một lời giải thích rõ ràng.
“Chỉ vậy thôi à?” Cậu ta quay sang nhìn tôi. Tôi khẽ gật đầu, vốn dĩ tôi chẳng có gì để nói với người kia cả.
“À… để tớ vậy.” Cậu nói thầm. “Đây là Andrey, cậu ấy đến từ thế giới bên ngoài. Tớ đã gọi cậu ấy đến để giúp cậu.”
Thế giới bên ngoài? Những từ ấy vang lên trong tâm trí tôi một cách nặng trĩu. Thì ra đây mới là ranh giới tạo nên sự khác biệt giữa chúng tôi, dù hai bên đều mang dáng vẻ của một con người.
Doris khẽ chớp mắt, môi mấp máy điều gì đó nhưng vẫn không có âm thanh nào cất lên. Cậu ta nhìn tôi lần nữa bằng ánh mắt dò xét. “Andrey…” Doris lặp lại, âm thanh phát ra đầy yếu ớt, chỉ đủ để nghe thấy. “Tớ chưa từng gặp người này, đúng không?”
Tôi không thể hiểu hết những suy nghĩ ẩn dưới đôi mắt xanh thẳm của Doris, nhưng tôi đoán là cậu cũng có cùng cảm xúc với tôi, ngay chính vào thời khắc đầu tiên cả hai vừa chạm mặt. Quen thuộc. Cái cảm giác quen thuộc đến khó tả ấy khiến cả tôi và cậu đều cảm thấy hoài nghi.
“Có chuyện gì sao?” Tylar hỏi lại, nhưng trông cậu bình thản đến mức dường như đã nắm rõ câu trả lời.
“Người đó… ở Helsinki…” Doris nói khẽ, rồi đưa hai tay ôm lấy đầu.
Tylar nhìn tôi, rồi lại đi về phía Doris. “Không phải đâu,” Cậu nói trong lúc giữ tay đối phương và yêu cầu cậu ta hãy bình tĩnh lại.
Tôi đoán là cậu ta đã nhớ về điều gì đó trong quá khứ. Người ở Helsinki mà cậu ta biết, có lẽ không ai khác ngoài bố tôi. Đó là nơi bố đã đi qua và quyết định ở lại, cũng là nơi những thí nghiệm đầu tiên, những thỏa thuận ngầm đẫm máu lẫn bước ngoặt chết người bắt đầu lộ diện. Có lẽ mọi chuyện đã bắt đầu từ khoảnh khắc đó, như một hạt mầm đen tối lặng lẽ lớn lên cho đến khi hóa thành màn đêm bao trùm lấy tất cả.
Tôi đứng cách Doris một khoảng vừa phải, vẫn đủ để thấy bờ vai của cậu ta run lên đầy sợ sệt. Giọng nói đó, gương mặt đó, con người đó, tất cả đều xa lạ đối với tôi, nhưng chẳng biết vì sao mà tôi lại có cảm giác như bản thân đã gặp gỡ đối phương cả trăm ngàn lần. Tôi sợ. Tôi sợ đến một ngày khi mình không còn tỉnh táo, tôi sẽ “đón nhận” những câu chuyện mà bố đã kể như một ký ức của riêng tôi. Phải. Nó sẽ thật sự trở thành quá khứ của chính tôi, nếu tôi để tâm đến nó quá nhiều.
“Bố của tôi…”
Tôi muốn nói, rồi lại thôi. Tôi thấy cổ họng mình nghẹn đắng và những bất mãn sâu thẳm trong lòng bắt đầu trỗi dậy. Tôi biết cậu ta không có lỗi. Cậu ta chưa bao giờ có lỗi trong cuộc hôn nhân đổ vỡ của bố mẹ tôi cả. Nhưng thật khó để lờ đi, khi chính cậu ta cũng là bản sao của người đàn ông luôn có mặt trong câu chuyện đó.
Tôi nhìn Doris – “con cừu” với vẻ ngoài yếu đuối đang run rẩy trong vòng tay của Tylar – và bất giác nghĩ về người mẹ đã luôn hứng chịu mọi đau khổ của mình. Mẹ tôi chưa từng nói bà căm hận Henry, nhưng tôi đoán là trong tâm bà không dễ dàng bỏ qua như thế. Tôi nhớ lại những giọt nước mắt lặng lẽ của bà khi bố nổi cơn thịnh nộ chỉ vì một lý do cỏn con, trong khi mọi người đều nói bố rất trân trọng Henry và hiển nhiên là mẹ tôi chưa một lần được trải qua cảm giác ấy.
Tôi ghét bố, vì bố là một người tệ bạc. Nhưng tôi không thể cứ thế từ mặt ông. Vì mẹ đã không lựa chọn tôi. Đó mới là điều khiến tôi băn khoăn nhất.
Có lẽ, tôi chẳng có tư cách gì để gặng hỏi người khác vì sao lại lừa dối mình, bởi đến cả gia đình cũ của tôi – bố, mẹ tôi – cũng chưa bao giờ thành thật với tôi về mọi thứ. Tôi từng nghĩ nếu con người thật sự yêu thương nhau, họ sẽ không giấu giếm đối phương bất cứ điều gì, nhưng thực tế đã dạy cho tôi một bài học hoàn toàn trái ngược. Bố có bí mật của riêng ông, mẹ có lý do của riêng bà và tôi chỉ đơn giản là một đứa trẻ luôn bị bỏ rơi trong những lời an ủi dối trá mà họ định nghĩa là bảo vệ.
Chẳng còn điều gì tồi tệ hơn việc sinh ra là một con người nhưng không được công nhận là một con người. Tôi có thể hiểu cho nỗi bất hạnh của cậu, nhưng tôi không thể tha thứ cho “cậu”. Bởi vì “cậu” mà tôi có bao giờ hiểu được hạnh phúc là gì đâu, Henry.
Tôi thấy khóe mắt mình cay nhẹ và những mâu thuẫn trong lòng cũng đồng loạt leo thang. “Đừng khóc, Andrey,” Tôi tự nhủ. Đôi lúc tôi muốn gạt qua lời Tylar đề nghị, muốn buông bỏ tất cả và mặc cho Doris bị giam giữ ở đây cả đời để thay nguyên thể của mình “tạ lỗi” với mẹ tôi. Nhưng đôi lúc, tôi cũng không đành lòng nhìn cậu ta chết dần chết mòn trong đau đớn. Tôi muốn cậu ta lẫn những “con cừu” khác sẽ được sống cuộc đời như một con người đúng nghĩa.
Tôi chẳng biết mình bị gì nữa. Trước đây, tôi không như thế này. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc phải đối xử thế nào với “Henry” hay phải làm cách nào để cậu ta thấy có lỗi. Tôi chỉ sống cuộc sống của riêng mình, luôn tử tế với tất cả mọi người và chưa một lần gây hiềm khích với ai. Tôi nghĩ rằng chỉ cần mình sống tốt, chỉ cần mình không làm điều gì gây ảnh hưởng đến danh dự cao quý của bố thì ông sẽ dần tha thứ cho hành động “ngu ngốc” của mình, nhưng hình như tôi đã sai rồi. Đây mới thật sự là hình phạt bố dành cho tôi vì dám không lựa chọn con đường mà ông đã vạch sẵn.
Khi con càng muốn tránh né điều gì, thì số phận chỉ càng đưa đẩy con đến gần nó mà thôi.
“Cậu…” Cổ họng tôi nghẹn lại lần nữa, tôi siết chặt tay.
Tôi không thể thốt ra thêm bất cứ lời nào. Cơn nhói buốt nơi ngực trái bất chợt lan ra khắp cơ thể khiến tôi giật thót và hai tai bắt đầu ù đi. Hình bóng Doris lẫn Tylar mờ nhạt dần, tôi lùi lại một bước, rồi hai, ba bước, đến khi lưng chạm vào bức tường lạnh ngắt phía sau.
“Andrey?” Giọng Tylar vang lên.
Tôi không thể đáp lại, chỉ biết bám vào bức tường phía sau để đứng vững. Chỉ ba giây kế tiếp, tôi cảm nhận được một ít chất lỏng nóng ấm chảy xuống cánh môi trên của mình. Tôi đưa tay quệt nhẹ lên mũi như một phản xạ. Máu. Máu đỏ tươi loang khắp đầu ngón tay, mọi thứ xung quanh trở nên méo mó, hòa lẫn vào nhau trong cơn choáng váng dữ dội.
Tôi có cảm giác như ai đó đã đỡ mình trước khi ngã xuống. Rồi trong thoáng chốc, tôi thấy mình đứng giữa thảo nguyên xanh với đàn cừu trắng một lần nữa, con cừu đầu đàn vẫn ở ngay đó, nhìn tôi bằng ánh mắt quen thuộc.
“Đừng khóc, tớ sẽ đưa cậu trở về.” Tylar nói và nhấc bổng tôi một cách dễ dàng.
“Cậu ấy sẽ không chết chứ?” Tôi nghe thấy giọng Doris cất lên đầy lo lắng, và hình như cậu còn giữ chặt tay tôi.
“Tớ sẽ quay lại ngay, yên tâm.”
Hơi thở của Doris gần kề bên tai, còn Tylar thì vội vàng đưa tôi rời khỏi đó, từng bước chân vang lên đều đặn trong không gian yên tĩnh nghe đáng sợ một cách kỳ lạ. Trong cơn đau đớn dữ dội, tôi thấy mình vẫn còn đứng giữa thảo nguyên, những con cừu nhìn tôi rồi biến mất. Giấc mơ ấy lặp đi lặp lại ba, bốn lần, đến khi trời đất tối sầm và tôi ngã quỵ.
Một giấc mơ kỳ lạ kéo dài suốt nhiều năm, âm thầm len lỏi vào tâm trí tôi như một thước phim mơ hồ nhưng không thể chối bỏ. Tôi chẳng biết ý nghĩa đằng sau nó là gì, chỉ biết rằng, những lời mà con cừu đầu đàn đã nói trong giấc mơ ấy chính là trọng trách to lớn mà mình phải mang.
Những con cừu trắng trên thảo nguyên xanh.
Những con cừu đi bằng hai chân bị giam cầm bên trong ngục thép.
Giấc mơ kỳ lạ đó, tôi chẳng biết nó đã bắt đầu khi nào. Từ khi bố bắt đầu kể cho tôi nghe về cuộc đời lừng lẫy của mình, hay chính từ cái ngày tôi nhận ra bản thân chưa bao giờ hiểu hết những sự thật về thế giới ngoài kia? Tôi không biết. Nhưng có một điều tôi dám chắc chắn, là tôi sẽ luôn như thế này nếu cố gắng nhớ về một điều gì đó không rõ ràng trong quá khứ.
Quá khứ của tôi? Hay quá khứ của bố? Đâu là thật, đâu là giả? Và phải làm cách nào để phân biệt?
Có lẽ, câu chuyện chỉ thật sự bắt đầu kể từ khoảnh khắc tôi nảy sinh cảm giác hoài nghi về thân phận của chính mình thông qua bí mật của những con cừu đi bằng hai chân.
Bình luận
Chưa có bình luận