Mọi người đều biết hậu quả mà mình phải gánh vác, nhưng bất cứ khi nào còn né tránh được thì cứ chạy trốn thôi.
Zero
Một tuần kế tiếp, tôi gần như đã quen thuộc với công việc và các thao tác cơ bản trên màn hình. Cô Emily không đến tìm tôi, và tôi cũng không gặp chị Hannah thêm lần nào kể từ ngày hôm đó. Dù tôi có gặp thêm một vài nhà nghiên cứu khác trong giờ nghỉ trưa, nhưng cũng không thân thiết mấy ngoài những lời chào xã giao căn bản.
Mỗi ngày, tôi sẽ mang thức ăn đến cho Dorry theo khung giờ quy định và phải quay về phòng ngay lập tức. Đúng như lời cô Emily nói, có hẳn một nhóm nhân viên khoảng năm người được phân công nhiệm vụ giám sát mọi hành động của tôi và báo cáo lại cho Viện trưởng Richard. Tôi chẳng biết ông ta có toan tính gì hay không, nhưng việc bị theo dõi từng nhất cử nhất động đã khiến tôi vô cùng mệt mỏi.
Tôi không thể tiếp cận Dorry. Nói đúng hơn là tôi còn chưa tận mắt nhìn thấy cậu ta lần nào dù mỗi ngày đều mang thức ăn đến. Những máy móc được bố trí trong phòng làm việc của tôi cũng không có chức năng ghi hình, chị Hannah nói việc giám sát hành vi là trách nhiệm của phòng 26. Tôi có từng đi ngang qua căn phòng ấy vài lần nhưng lúc nào cửa phòng cũng đóng kín, và hình như cũng chẳng có ai ra vào.
Phòng làm việc của tôi là phòng số 23 – ngay cạnh thang máy, nếu chịu khó lắng tai sẽ có thể nghe thấy tiếng chuông báo dừng. Thông thường, cứ tầm mười một giờ hơn sẽ có tiếng chuyện trò rôm rả của một nhóm đồng nghiệp ở phòng 28 đang trên đường đến nhà ăn. Và đó cũng là căn phòng duy nhất có dấu hiệu của con người. Tôi không biết liệu có còn lối đi nào khác để di chuyển lên mặt đất hay không, nhưng có một điều tôi dám chắc chắn là khu A không hề có cầu thang bộ.
Tôi ngả người ra ghế, chán nản nhìn mấy bức vẽ nguệch ngoạc trong sổ tay rồi lại thở dài. Trái ngược hoàn toàn với lời kể của chú Fred hay cô Emily, tình trạng sức khỏe của Dorry khá tốt và tâm lý của cậu ta cũng chẳng có vẻ gì là bất ổn. Ngoại trừ một điều khó hiểu là cậu ấy đã không ăn uống gì trong suốt bảy ngày qua, những phần thức ăn tôi mang đến đều bị nhân viên gom dọn vào cuối ngày. Một thành viên trong đội nghiên cứu mà tôi nộp báo cáo nói rằng, Dorry hoàn toàn có thể sống tốt trong vòng một tháng mà không cần phải bổ sung dinh dưỡng. Nhưng họ vẫn yêu cầu tôi đừng quên nhiệm vụ vì cậu ấy có thể sẽ đói bụng bất cứ lúc nào.
Tôi nhìn đồng hồ treo tường. Tám giờ năm mươi lăm phút sáng, sắp tới thời điểm phải mang thức ăn đến cho Dorry. Tôi bật dậy khỏi ghế, lấy thẻ thang máy nhét vào túi và rời khỏi phòng. Tầng bảy là nơi tuyệt mật của ISH mà chỉ những ai được cấp thẻ từ mới có thể đi vào. Tôi nghe nói, đằng sau những cánh cửa bằng thép kiên cố ấy là những bản sao có năng lực phi thường và được tạo ra nhằm mục đích chiến đấu. Dù Dorry không thể so sánh với những “con người” đó, nhưng cậu ta vẫn bị giam giữ ở đây vì tính cách bất trị.
Tôi đến trước thang máy, còn chưa kịp nhấn nút đi xuống thì tiếng chuông báo dừng vang lên và cánh cửa bật mở. Chàng trai trạc tuổi tôi vừa định bước ra ngoài, nhưng khi trông thấy tôi thì hình như khựng lại đôi chút và lùi dần vào trong.
“Cậu là con trai của Tiến sĩ Albert, đúng không?” Cậu ta hỏi.
Tôi khẽ gật đầu, rồi im lặng. Danh tính cùng với chức vụ được khắc vào bảng tên đính trên ngực trái của cậu ta khiến tôi không thể không căng thẳng. Tiến sĩ Zero – hay có thể gọi là Richard Campbell phiên bản trẻ.
Đây là lần đầu tiên tôi được tận mắt chứng kiến một người nhân bản bằng xương bằng thịt. Dù chưa kịp nhìn rõ nhưng có vẻ cậu ta sở hữu gương mặt khá ưa nhìn, dáng người cao ráo và chất giọng trầm. Tôi vẫn còn nhớ như in giọng nói ấy – là chàng trai trẻ đi cùng cô Emily.
“Tên cậu là Andrey nhỉ?” Cậu ta lại hỏi.
Tôi không trả lời.
“Tên của tớ là…” Cậu ta dừng lại, như đang suy nghĩ điều gì đó, rồi nói tiếp. “Zero. Những người khác gọi tớ là Zero. Dù tớ không thích cái tên này cho lắm, nhưng cậu có thể gọi tớ như vậy.”
Tôi vẫn giữ im lặng. Tiếng chuông báo dừng của thang máy vang lên, cùng lúc cậu ta “a” lên một tiếng đầy tiếc nuối.
Tầng năm.
Cậu ta nhanh chóng bước ra ngoài, đưa một tay chặn cửa thang máy và nhìn tôi chằm chằm. Chín giờ mười phút. Đã trễ hơn thời gian quy định và khả năng cao tôi sẽ bị cô Reiss trách mắng. Tôi nhìn đồng hồ đeo tay, đắn đo thêm một lúc rồi ngẩng mặt nhìn cậu ta.
“Xin lỗi, tôi đang vội.” Tôi nói. Và cậu ta mỉm cười.
Không khác gì Richard Campbell trong bức ảnh chụp cùng với bố tôi năm 2086. Đó là nhận định đầu tiên của tôi về người trước mặt. Cậu ta cao hơn tôi một cái đầu, sở hữu nước da trắng, tóc nâu đen và đôi mắt màu hổ phách.
“Nếu lãng phí thời gian vì tớ thì sẽ không ai dám trách mắng cậu đâu.”
Cậu ta xoay người, chỉ tay về phía camera đối diện cửa thang máy. Zero trông chẳng khác gì một con người bình thường. Thậm chí, đến cả vẻ bề ngoài hay khí chất cũng đều vượt trội so với tôi. Dù rất ghét phải thừa nhận điều này, nhưng có lẽ, “nhân bản con người” thật sự là một phát kiến vĩ đại của những nhà khoa học.
Từ nhiều thập kỷ trước, nhân loại đã luôn ôm mộng trường sinh và chính điều này đã dẫn đến kết cục những bản sao phải “chào đời” để phục vụ cho tham vọng ấy. Xuất hiện trong hình hài của một con người, và là một con người, nhưng không được thế giới công nhận. Đó là số phận của người nhân bản.
UNHRC không đưa ra bất cứ đạo luật nào để bảo vệ quyền lợi cho người nhân bản, nói đúng hơn là sự tồn tại của họ không được luật pháp thế giới công nhận và không có nhân quyền[1]. Theo Luật Nhân đạo quốc tế được sửa đổi, bổ sung năm 2095[2], Tòa án quốc tế quy định mức án cao nhất đối với những cá nhân và tổ chức dung túng cho kế hoạch “nhân bản vô tính”, đồng thời xử tử công khai[3] những cá nhân trực tiếp tham gia vào dự án nghiên cứu này. Tuy nhiên, họ không có động thái xử lý hay đưa ra phán quyết cụ thể nào cho người nhân bản. Chính vì vậy mà vấn đề nhân quyền ở các bản sao vẫn luôn là dấu chấm hỏi lớn trong giới khoa học lúc bấy giờ.
Bố tôi không biết điều gì sẽ xảy ra với một bản sao nếu thế giới biết đến sự tồn tại của chúng. Và ông cũng chưa bao giờ quan tâm đến vấn đề này. Tính đến thời điểm hiện tại, thế giới đã có rất nhiều trường hợp được cấy ghép nội tạng của người nhân bản. Tất nhiên là ngoại trừ Richard Campbell và những bên có liên quan thì không còn ai biết đến sự thật này. Nhưng, đến cả Richard hay những nhà khoa học trực tiếp tham gia vào quá trình nhân bản cũng không thể đảm bảo xác suất thích ứng của tạng phủ “sao chép” trong cơ thể người thật là bao nhiêu. Tất cả những cuộc phẫu thuật cấy ghép đều mang tính chất may rủi và khó thể duy trì trạng thái tích cực theo thời gian. Nếu bí mật bại lộ thì hiển nhiên sự tồn tại của người nhân bản sẽ bị lật tẩy.
“Cậu có thích cừu không?” Zero huơ tay kéo tôi về thực tại. “Những con cừu ngây thơ, lúc nào cũng tin rằng chỉ cần ngoan ngoãn thì sẽ được con người cho thức ăn… Cậu có thích chúng không, Andrey?”
Tôi khẽ rùng mình. Zero đã không cười nữa. Cậu ta nhìn tôi bằng ánh mắt sắc lạnh, hệt như một con thú hoang đang sắp sửa vồ lấy con mồi. “Tuyệt đối không được nói chuyện với Zero”, lời dặn dò của cô Emily vang lên trong đầu và tôi bất giác lùi về sau như một phản xạ. Cậu ta không được dạy dỗ về nền văn minh của con người, và cậu ta không có nhân tính.
Tiền thân của ISH là Viện Roslin. Và “cội nguồn” của Zero là con cừu đã từng ghi danh vào lịch sử khoa học. Tôi biết rõ điều đó. Và tôi tin là cậu ta cũng biết rõ điều đó. Không lý nào một bản sao mang bộ não thiên tài lại đặt câu hỏi cho tôi mà không có ẩn ý. Tôi không thể nói là mình thích cừu, vì lời này đồng nghĩa với việc tôi ủng hộ dự án nhân bản. Nhưng tôi cũng không thể nói rằng mình không thích, bởi có thể cậu ta sẽ nghĩ tôi mang tư tưởng thù địch. Tôi phải lường trước mọi kết cục. Bởi Zero là một “con người”. Cậu ta hoàn toàn nhận thức được mọi thứ. Và, cậu ta căm thù nhân loại.
Chị Hannah nói rằng não bộ của cậu ta tự động đào thải mọi thông tin liên quan đến con người. Đó không phải là lỗi đặc trưng của một bản sao hay dị tật bất thường trong quá trình nghiên cứu, mà là vì bản thân cậu ta đã nhận thức được giá trị thật sự của mình và “đồng loại” trong mắt con người. Bản sao là công cụ phục vụ thí nghiệm, là vật tế cho tham vọng trường sinh và là những “tấm khiên” bất khả chiến bại trên chiến trường. Richard Campbell chưa bao giờ phủ nhận quan điểm ấy, và bản sao của Richard Campbell hoàn toàn hiểu rõ những điều ấy.
“Còn cậu thì sao?” Tôi hỏi.
Zero khẽ chớp mắt, rồi lại nghiêng đầu.
“Tiến sĩ Albert có một con cừu kỳ lạ… nhưng tớ phải bảo vệ nó…” Cậu ta thả tay khỏi cửa thang máy, để lại một câu nói khó hiểu rồi bỏ đi.
Con cừu của Tiến sĩ Albert là bản sao của Henry đang bị giam giữ ở tầng bảy. Tôi chưa từng nghe ai nói về mối quan hệ giữa Richard Campbell và người đàn ông mà bố tôi trân trọng, nhưng tôi nghĩ, nếu Zero đã muốn bảo vệ thì hẳn là giữa hai nguyên thể phải có liên quan. Bố tôi từng nói rằng, giữa bản sao và nguyên thể luôn có một mối liên kết ký ức nhất định. Trong vài trường hợp, bản sao hoàn toàn có thể nhìn thấy quá khứ của “chính mình” thông qua ký ức được mang theo ở tế bào gốc.
Và rất có thể, Dorry cũng sở hữu một phần ký ức tươi đẹp về bố tôi. Đó là điều khác biệt lớn nhất giữa hắn ta và mẹ.
“Trễ ba mươi hai phút.” Cô Reiss – chuyên gia dinh dưỡng của Dorry lên tiếng chất vấn. “Cậu đã làm gì trong cái phòng chết tiệt đó vậy?”
“Cháu…” Tôi ấp úng. “Cháu gặp Zero ở thang máy… Cậu ấy hỏi cháu rất nhiều chuyện nên…”
Cô ấy nhìn tôi với ánh mắt nghi ngờ rồi không hỏi thêm điều gì nữa. Quả nhiên, đúng như Zero nói. Nếu tôi lãng phí thời gian vì cậu ta thì sẽ không có ai trách mắng tôi cả. Nhưng, tôi sẽ không dại dột đến gần cậu thêm bất cứ lần nào nữa.
Tôi gạt qua những lo lắng trong đầu và quan sát cô Reiss chuẩn bị thức ăn cho Dorry. Khẩu phần của cậu ấy không khác gì so với chúng tôi, chỉ có điều, mỗi suất ăn đều phải được trộn lẫn với thuốc an thần để kiểm soát “cơn đau” của cậu ấy.
“Dorry đã không ăn gì trong suốt bảy ngày qua…” Tôi nói. “Và cũng không có dấu hiệu phát điên dù không dùng thuốc an thần.”
“Tôi cũng rất tiếc khi thấy những món mình nấu bị đám người đó vứt đi,” Cô Reiss thở dài. “Nhưng đã là trách nhiệm thì phải cố gắng hoàn thành.”
Phải. Đã là trách nhiệm thì phải cố gắng hoàn thành, dù cho có không nhận lại kết quả gì đi nữa. Ngay cả khi tôi đã rất chán ngán với công việc vô nghĩa này thì tôi cũng không thể đến trước mặt Richard Campbell và dõng dạc tuyên bố rằng mình bỏ cuộc. Nếu bất mãn thì tôi phải từ chối ngay từ đầu rồi, nhưng vì bản thân đã cố chấp theo đến tận đây nên đành chấp nhận thôi.
Tôi mang thức ăn xuống tầng bảy, nhân viên an ninh đã đợi sẵn và hỏi tôi vì sao lại đến muộn. Tôi trả lời như khi cô Reiss hỏi và ông ta cũng im lặng cho qua.
Cánh cửa thép quen thuộc mở ra như thường lệ, người đàn ông dẫn đường và tôi nhanh chóng theo sau. Phòng giam giữ Dorry nằm ở cuối dãy hành lang, mất tầm bảy phút di chuyển. Dù đã đến nhiều lần, nhưng tôi vẫn không thể quen thuộc với không gian ở đây. Một phòng ước chừng tầm mười mét vuông – tôi không biết bên trong được bố trí như thế nào, nhưng dựa vào khoảng cách cửa giữa các phòng và độ cao trần thì khá ngột ngạt. Tường và cửa phòng đều được đúc từ một loại thép đặc biệt có thể chịu được nhiệt độ cao và áp lực lớn, nhằm ngăn chặn sức công phá khủng khiếp từ bên trong.
Thế hệ F3 bị giam giữ ở tầng bảy đều là những bản sao đã thành công “sống sót” qua quá trình tiến hóa gia tốc bằng “dược tiến hóa” Prolixium. Chị Hannah tiết lộ rằng, có hai dạng tiến hóa mà Richard Campbell đang cố gắng thử nghiệm trên các bản sao nhưng chưa đạt được kết quả kỳ vọng là tiến hóa siêu phàm và tiến hóa gia tốc. Những bản sao ở tầng bảy, có thể tạm gọi là những sản phẩm thí nghiệm thành công của phương pháp thứ hai.
Dược tiến hóa Prolixium có khả năng kích thích và đẩy nhanh quá trình phát triển ở người nhân bản, đáp ứng nhu cầu nhân lực cấp bách cho các tổ chức quân sự toàn cầu. Tuy nhiên, nhược điểm nghiêm trọng nhất của loại thuốc này là rút ngắn tối đa tuổi thọ của bản sao và dễ xuất hiện những dị tật hậu trưởng thành. Thông thường, một bản sao được tạo ra ở điều kiện tiêu chuẩn có tuổi đời chiếm khoảng một phần hai tuổi thọ thực tế của nguyên thể. Nghĩa là, tế bào gốc không có sẵn mầm bệnh và nguyên thể đáp ứng đủ điều kiện sức khỏe ở thời điểm lấy mẫu, có thể tạo ra một bản sao khỏe mạnh với xác suất tồn tại rơi vào ba đến bốn mươi năm. Trong trường hợp sử dụng Prolixium để can thiệp vào quá trình trưởng thành của nhóm bản sao tiêu chuẩn này thì tuổi đời của chúng sẽ giảm xuống chỉ còn mười đến hai mươi năm, tương đương tỷ lệ một phần tư so với tuổi thọ của nguyên thể. Trên thực tế, rất khó để đạt được điều kiện lý tưởng như vậy nên tỷ lệ thậm chí còn thấp hơn.
Richard Campbell và các đồng nghiệp đang không ngừng tìm ra giải pháp ổn thỏa cho phương pháp này, đồng thời chọn lọc những bản sao đáp ứng đủ điều kiện sức khỏe để giảm thiểu rủi ro trong quá trình thí nghiệm. Thế hệ F3 ra đời, dựa trên nền tảng là các bản sao tiêu chuẩn thuộc thế hệ F2 đã vượt qua giai đoạn tiến hóa gia tốc.
Về phương pháp thứ nhất – tiến hóa siêu phàm, có vẻ không mấy khả quan và Richard Campbell buộc phải hủy bỏ dự án để giải quyết vấn đề tài chính cho tổ chức. Tương tự như can thiệp bằng Prolixium nhưng ở mức độ cao hơn và hầu như không có ai biết đến dự án tuyệt mật này. Chị Hannah nói, Viện trưởng đã tự mình tham gia vào quá trình nghiên cứu cùng với những đồng nghiệp trong và ngoài ngành mà ông ta tin tưởng. Sau khi thực hiện thí nghiệm trên “con chuột bạch” hoàn hảo nhất ở thời điểm đó và nhận lấy thất bại nặng nề, ông ta đã tuyên bố giải tán nhóm nghiên cứu, ra lệnh đóng cửa khu D cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên, vẫn có một số tin đồn cho rằng, Richard Campbell chưa từng từ bỏ tham vọng bất khả thi này và vẫn âm thầm tìm ra hướng đi mới.
“Dù sao cũng không gặp Dorry, vậy cớ gì Viện trưởng lại muốn cháu mang thức ăn đến cho cậu ấy chứ?” Tôi lẩm bẩm.
“Vì nó là một bản sao kỳ lạ…” Người đàn ông bất chợt lên tiếng.
Zero cũng nói rằng, bố tôi có một con cừu kỳ lạ.
“Những căn phòng này được bao bọc bởi nhiều lớp thép đặc biệt, và ở giữa chúng là chân không.” Người đàn ông gõ một vài cái vào bức tường bên cạnh. “Bọn chúng sẽ không biết, không nghe được những gì đang xảy ra ở bên ngoài. Dù có bị đánh bom thì căn phòng này cũng chẳng hề hấn gì cả.”
Tôi càng nghe càng không thể tin vào tai mình. Khoa học đã phát triển đến mức độ này và thật lãng phí khi tài năng của họ chỉ tập trung vào những hành động phi pháp. Tôi thử chạm tay vào cánh cửa, có một luồng điện nhẹ phóng ra và tôi vội vã rụt tay lại.
“Đừng chạm vào, nếu không có chuyên môn mà tự ý chạm vào thì sẽ bị điện giật đấy.” Chú ấy giải thích. “Vì không biết ai là người đáng tin, nên Viện trưởng yêu cầu phải thiết kế tích hợp dòng điện tĩnh để tránh trường hợp ai đó xâm phạm trái phép.”
“Viện trưởng mất niềm tin vào đồng nghiệp đến thế sao ạ?”
“Vì cậu mới đến nên không biết thôi,” Chú ấy lắc đầu. “Những người mà cậu coi là đồng nghiệp cũng có thể là một cảnh sát ngầm đấy.”
Thật buồn cười nếu một ngày nào đó bản thân bị tống vào tù bởi những người mình coi là đồng nghiệp. Nhưng nếu đã lựa chọn con đường này thì đó hẳn là kết cục không thể tránh khỏi. Mọi người đều biết hậu quả mà mình phải gánh vác, nhưng bất cứ khi nào còn né tránh được thì cứ chạy trốn thôi.
“Vậy việc đó thì liên quan gì đến Dorry chứ?” Tôi thắc mắc. “Nguyên thể của cậu ấy cũng là tội phạm mà…”
“Ừ nhỉ?! Chúng ta đang nói về vấn đề của Dorry mà…” Chú ấy khẽ gật đầu. “Cậu thấy đấy. Những căn phòng này được thiết kế cách âm tuyệt đối, nhưng bằng một cách thần kỳ nào đó… Dorry có thể nghe thấy âm thanh ở bên ngoài.”
“Còn có cả chuyện này sao ạ?”
“Đó là lý do vì sao nó bị nhốt ở đây…” Chú nói tiếp. “Một bản sao bị lỗi nhưng lại có dấu hiệu của tiến hóa siêu phàm. Tuy Viện trưởng không hài lòng về nó, nhưng ngài ấy cũng hy vọng nó sẽ mang lại kỳ tích.”
Tôi bắt đầu thấy nghi ngờ nhiều hơn là khó hiểu. Tôi không biết các thành viên của ISH đang cố gắng che giấu điều gì, nhưng mỗi người đều đưa ra một lý do khác nhau mỗi khi tôi thắc mắc về Dorry. Cậu ta là một con cừu kỳ lạ, và những người ở đây cũng kỳ lạ không kém. Tôi không nói thêm lời nào nữa, chỉ gật đầu nhẹ như đã hiểu và lầm lũi theo sau.
HRY-01 là bảng tên được khắc trên cánh cửa của căn phòng cuối cùng, cũng đồng thời là mã định danh của Dorry. Mỗi phòng giam ở tầng bảy đều được phân biệt như vậy, tùy vào mức độ nguy hiểm của các bản sao mà những nhà nghiên cứu sẽ có biện pháp theo dõi phù hợp. Chẳng hạn như PTH-03 hay RNB-03 bên cạnh, cứ mỗi thứ Hai đầu tuần thì nhân viên chịu trách nhiệm theo dõi chúng sẽ được phép vào phòng để quan sát tình trạng sức khỏe và ghi chép lại, cũng như để chúng dần làm quen với sự tồn tại của con người trước khi chính thức được bàn giao cho các tổ chức quân sự. Nhưng trong trường hợp của Dorry, mọi hoạt động giám sát đều phải tiến hành bằng máy móc tiên tiến bởi cậu ấy không “chào đón” con người và luôn trong trạng thái sẵn sàng tấn công.
“Đặt xuống đó và đi đi.” Người đàn ông chỉ tay xuống sàn.
Cũng như những lần trước, chú ấy chỉ yêu cầu tôi đặt thức ăn xuống trước cửa phòng và rời đi. Công việc mang thức ăn vào cho Dorry là trách nhiệm của chú, còn tôi chỉ là một người giám sát và nhiệm vụ của tôi là theo dõi những thông số thay đổi trên màn hình. Tôi từng hỏi vì sao tôi phải nhận một nửa công việc này thì chú chỉ nói rằng Dorry cần thời gian để quen thuộc với tôi. Cậu ấy có thể nghe thấy giọng nói và cả tiếng bước chân truyền đến từ bên ngoài, dù không thể biết rõ danh tính của người đến nhưng nếu có cơ hội gặp nhau thì cậu ấy sẽ không nảy sinh cảm giác bị đe dọa.
Dorry sợ hãi trước những cuộc thí nghiệm tàn nhẫn của ISH, và cậu ấy ghi nhớ rất rõ giọng nói của tất cả những ai tham gia vào dự án. Người đàn ông kia giải thích, Dorry rất nhạy cảm với âm thanh, dù cách một khoảng rất xa nhưng cậu ấy vẫn có thể nhận ra sự tồn tại của những kẻ đã gây nguy hiểm cho mình và luôn phát điên bởi âm thanh của họ.
“Cháu có thể gặp cô Emily không ạ?” Tôi hỏi.
Người đàn ông thoáng đăm chiêu, quan sát tôi một lượt từ trên xuống rồi mới do dự gật đầu. “Phòng làm việc của cô ta ở tầng ba, nếu muốn thì cậu có thể hỏi nhân viên an ninh ở đó.”
Tôi cảm ơn một tiếng rồi nhanh chóng rời khỏi. Dãy hành lang này được bố trí rất nhiều camera, có lẽ đội ngũ giám sát tôi cũng đã nhận ra điều bất thường khi tôi và người đàn ông kia nói chuyện nhiều hơn thường ngày, rất có thể sẽ có một nhân viên được phân công chờ sẵn trước phòng làm việc khi tôi trở lại. Nhưng bằng mọi giá, tôi phải đến gặp cô Emily. Tôi phải xác minh lại một vài điều và hiển nhiên cô ấy là người đáng tin nhất. Người phụ nữ có vẻ biết rất nhiều về ISH, cũng đồng thời là người duy nhất không tôn trọng Viện trưởng – theo lời chị Hannah. Chị gái ấy là một người nhiệt tình và khá niềm nở, nhưng chị ta “tôn sùng” Richard Campbell đến mức khiến tôi phải nghi ngờ. Và tôi không thể cứ liều lĩnh đặt niềm tin ở người có cùng quan điểm với gã đàn ông điên rồ đó.
_____
[1] Theo bối cảnh truyện, một người chỉ được công nhận là công dân khi sở hữu Chứng minh thư (Identity Card) được cấp bởi quốc gia đăng ký khai sinh. Và cá nhân sẽ bị tước đi quyền con người trong trường hợp vi phạm pháp luật (xét theo mức độ quy định) bởi quốc gia đó.
[2] Luật Nhân đạo quốc tế được đặt ra nhằm thống nhất thực thi và xử phạt các cá nhân/tổ chức xâm phạm đến quyền con người trên phạm vi toàn cầu. Ở luật này không có điều khoản ngoại lệ cho người nhân bản, nghĩa là họ không được cấp Chứng minh thư và không được công nhận là một con người.
[3] Hành động tử hình được thực hiện trước sự chứng kiến của công chúng và truyền thông, nhằm mục đích răn đe, bày tỏ thái độ kiên quyết trước hành vi phi đạo đức và gây nguy hại lớn cho nhân loại.
Bình luận
Chưa có bình luận