Hiểm họa từ một thiên tài lúc nào cũng nhiều hơn lợi ích mà họ mang lại.
Bắt đầu công việc
Khi tôi tỉnh lại đã là mười giờ sáng của ngày hôm sau. Cô Emily nói rằng tôi đã ngất đi khoảng tám tiếng đồng hồ sau khi tiêm thuốc. Cô ấy cũng vô cùng ngạc nhiên khi cơ thể tôi liên tục phản kháng và không tiếp nhận bất cứ phương pháp can thiệp nào để rút ngắn thời gian hồi phục.
“Siêu miễn dịch”[1] là chẩn đoán của một bác sĩ tại New York sau khi quan sát khả năng tự phục hồi của tôi trong gần một năm. Ông ấy nói rằng, trường hợp của tôi khá hiếm gặp nhưng không phải là chưa từng xảy ra. Những người tồn tại cơ chế siêu miễn dịch hầu như có khả năng chống lại hoàn toàn các loại virus gây hại đến cơ thể. Khi còn nhỏ, tôi rất hay bệnh vặt, sức khỏe của tôi chỉ ở mức khá nhưng khả năng hồi phục lại vô cùng vượt trội. Nếu hôm nay mắc bệnh thì ngày mai sẽ hết, cứ như thế lặp đi lặp lại đến khi tôi vào tiểu học. Ban đầu bố mẹ còn lo lắng, lâu dần cũng thành quen và không còn bận tâm đến nữa.
Vì có cơ thể “đặc biệt” hơn người mà cuộc sống của tôi cũng nhẹ nhàng hơn hẳn. Bệnh tật chưa bao giờ buông tha tôi, ở mỗi giai đoạn khác nhau sẽ có những triệu chứng khác nhau, nhưng điều đáng mừng là chúng không gây nguy hiểm đến tính mạng và cũng không đeo bám dai dẳng.
“Đây là lần đầu tiên tôi thấy một người kỳ lạ như cậu…”
Cô Emily mang đến cho tôi một ly nước mát và kiểm tra tình trạng của tôi một lần nữa. Theo như tôi được biết, cô ấy không chỉ đơn thuần là một bác sĩ, mà còn là một nhà nghiên cứu. Tương tự với trường hợp của chú Fred, nhưng chú ấy thay đổi công việc hoàn toàn, còn cô ấy thì tiến hành song song.
“Hãy nghỉ ngơi thật tốt,” Cô Emily dặn dò. “Khi nào sẵn sàng, tôi sẽ đưa cậu đến gặp Dorry.”
“Đây là tầng mấy ạ?”
“Tầng hai, khu A.”
Theo bản đồ điện tử mà tôi nhận được từ nhân viên an ninh, Viện nghiên cứu chia thành ba khu vực A, B, C với chức năng hoàn toàn riêng biệt. Khu A là khu vực dành riêng cho các chuyên viên giám sát và lưu trữ toàn bộ dữ liệu về các bản sao. Khu B là phòng nghiên cứu và chế tạo thành phẩm mà chỉ những ai được chỉ định mới có thể ra vào. Khu C là nơi “nuôi dưỡng” các bản sao hay nói cách khác là “nhà” của chúng, chỉ có chăm sóc viên được phép ở lại 24/7. ISH nghiêm cấm các nhà khoa học gặp mặt “con cái” của mình để tránh xảy ra hiệu ứng “ngộ nhận đấng sinh thành”[2].
Ở ISH, mọi công đoạn trong quá trình nhân bản đều được tiến hành bằng máy móc hiện đại và đảm bảo độ chính xác tuyệt đối. Trong một vài tài liệu do bố tôi để lại có ghi chép ngắn gọn về các bước của quy trình này, tôi sẽ tạm tóm tắt để các bạn hình dung. Nếu có dịp gặp gỡ đồng nghiệp của bố trong thời gian “làm việc” tại ISH, tôi nhất định sẽ bổ sung hoàn chỉnh.
Như đã từng nói, mỗi thành viên của Viện nghiên cứu đều có vai trò riêng. Để thu thập mẫu tế bào từ các nguyên thể từ khắp nơi trên thế giới, một nhóm nhà nghiên cứu sẽ được trao cho thẻ thông hành, chịu trách nhiệm đi và thu thập, sau đó mang về Viện để bắt đầu quá trình nhân bản. Sau khi nhận mẫu tế bào từ nhóm thứ nhất, các nhà nghiên cứu ở nhóm thứ hai sẽ thực hiện tách chiết và xử lý trong phòng thí nghiệm vô trùng để thu thập phần lõi chứa ADN hoàn toàn tinh sạch. Nhóm thứ ba có vai trò “nuôi cấy” và đảm bảo môi trường an toàn để tế bào gốc thực hiện quá trình phát triển và phân chia. Nếu công đoạn tiến hành thành công sẽ được chuyển đến khu vực nghiên cứu của nhóm thứ tư, loại bỏ nhân của tế bào trứng để cấy nhân tế bào gốc và sử dụng xung điện nhẹ để kích thích quá trình phân chia. Sau khi chuyển vào lồng nuôi cấy đặc biệt, nhóm thứ năm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các dưỡng chất mô phỏng tử cung tự nhiên để phôi phát triển mà không cần cấy ghép vào cơ thể người. Và nhóm cuối cùng sẽ theo dõi, đánh giá chất lượng phôi qua từng giai đoạn phát triển - từ lúc trở thành bào thai cho đến khi chào đời.
Bản sao được đưa đến khu C là những bản sao hoàn hảo, đạt yêu cầu theo hợp đồng đã ký kết với nguyên thể. Những bản sao xuất hiện lỗi trong quá trình nghiên cứu hoặc có dấu hiệu dị tật ở những tháng cuối cùng của “thai kỳ” sẽ bị tiêu hủy và tiến hành lại từ đầu. Trong lịch sử của ISH, Dorry là bản sao duy nhất được phép sống đến ba mươi ba tuổi dù mắc lỗi đặc trưng[3] của một “người nhân bản”.
“Cô có thể kể cho cháu nghe về Dorry không?” Tôi hỏi. “Nếu biết một chút về cậu ấy, có thể cháu sẽ dễ dàng làm quen hơn.”
“Làm quen?” Cô Emily có chút khó chịu. “Cậu đến đây để kết bạn à?”
“Không phải ạ?” Tôi có linh cảm chẳng mấy tốt lành. “Chẳng phải nhiệm vụ của cháu khi đến đây là chăm sóc Dorry sao? Nếu hiểu tính cách cậu ấy thì sẽ dễ bắt chuyện hơn mà, cháu không thể giữ im lặng và chăm sóc cho một người lạ đâu.”
“Hình như cậu đã nhầm lẫn gì đó rồi, Andrey.” Cô Emily nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ. “Ở đây, chúng tôi nói không với việc trò chuyện cùng bản sao và nghiêm cấm mọi hành vi truyền bá tư tưởng con người cho bọn chúng.”
Trước khi trở thành thực thể hoàn chỉnh, bản sao chỉ là một tế bào tách ra từ cơ thể con người và là một phần của con người. Nguyên thể đủ thông minh sẽ khiến bản sao hình thành bản năng quen thuộc với mọi thứ. Thậm chí, đồng nghiệp của bố tôi từng đưa ra bằng chứng chứng minh rằng, một bản sao hoàn hảo khi bước sang độ tuổi thứ tám hoàn toàn có thể giải được chính xác phương trình Michaelis-Menten – mô tả động học của phản ứng enzyme, vốn được “lưu trữ” trong não bộ của nguyên thể mà không cần trải qua bất cứ buổi học nào. Có lẽ điều này đã gây ra nỗi ám ảnh cho ISH, khi chính các bản sao hoàn hảo cũng đồng thời là con dao hai lưỡi đe dọa đến sự an toàn của bọn họ.
“Nghĩa là cháu không được giao tiếp với Dorry?”
“Không phải là không được, mà là không nên.” Cô Emily đáp. “Cậu kỳ vọng gì ở một bản sao bị lỗi và thậm chí còn chẳng được hình thành từ ADN của thiên tài? Nó không thông minh, nhưng rất nguy hiểm. Tôi không biết có phải vì nguyên thể là tội phạm nên nó mới như vậy hay không, nhưng nó rất hung hăng và luôn tấn công bất cứ kẻ nào đến gần. Richard bảo cậu đến để trấn an nó, hắn chỉ đang làm điều vô nghĩa thôi. Nó đã hoàn toàn mất kiểm soát từ khi bố cậu qua đời. Dù Albert có đội mồ sống dậy thì nó cũng không thể trở về là nó của trước kia nữa.”
Ngay cả bố tôi còn chẳng thể ngăn cản, thì việc tôi xuất hiện ở đây còn ý nghĩa gì đâu. Có lẽ cô Emily đã nói đúng, tôi chỉ đang nhầm lẫn, thậm chí cả Viện trưởng Richard hay chú Fred cũng đều đang nhầm lẫn và đánh giá thấp tình trạng của Dorry. Cô Emily nói, cô đã theo dõi Dorry từ nhỏ cho đến lúc trưởng thành, và tình trạng của cậu ta chưa bao giờ khả quan dù chỉ một chút. Viện nghiên cứu giữ Dorry lại là vì sự tôn trọng dành cho bố tôi, và Richard Campbell cho người gọi tôi đến đây cũng vì muốn tôi có thể tận mắt nhìn thấy thành tựu cuối cùng trong sự nghiệp của bố mình.
Tôi biết ơn vì điều đó. Và tôi cũng không bao giờ quên đi điều đó.
“Nhưng cháu vẫn sẽ chăm sóc Dorry đúng không ạ?”
“Đúng,” Cô Emily khẽ gật đầu. “Khi nào nó chết thì cậu được tự do.”
Cô ấy nói với vẻ mặt thản nhiên, nhưng tôi thừa hiểu đó là sự thật không thể chối cãi. Tuổi thọ của bản sao chỉ chiếm khoảng một phần hai so với con người, và Dorry – một bản sao bị lỗi, sẽ không thể sống quá hai năm kế tiếp. Trước khi tôi đến đây, Richard Campbell đã ra lệnh tiêu hủy Dorry và những nhà khoa học từng trong nhóm hỗ trợ bố tôi năm đó đã âm thầm chuẩn bị một liều thuốc trợ tử cho trường hợp khẩn cấp. Nhưng ông ta đột ngột thay đổi quyết định và tôi được gọi đến để chăm sóc – hay nói cách khác là đến để kéo dài sự sống cho Dorry thêm hai năm nữa. Tuy nhiên, cô Emily cũng nói rằng trong hai năm ấy chẳng may có bất trắc xảy ra, nếu tình trạng của Dorry chuyển biến xấu hoặc cơn điên loạn của cậu ấy trở nên mất kiểm soát, tôi sẽ là người trực tiếp đứng ra – đại diện cho Tiến sĩ Albert – tiêm mũi thuốc trợ tử để cậu ấy chìm vào giấc ngủ vĩnh hằng. Và kể từ thời điểm này, tôi phải luôn trong trạng thái sẵn sàng chờ lệnh.
“Nhưng trước tiên, cậu phải thuộc lòng những quy tắc này.”
Cô Emily ngồi xuống ghế đối diện tôi, bắt chéo chân và nhìn chăm chăm vào khoảng không vô định. Hai hàng chân mày nhíu lại, rồi giãn ra, như đang cố nhớ về điều gì đó.
“Thứ nhất, không tự ý đến gặp Dorry nếu không được phép. Nó ở tầng bảy, và cậu sẽ làm việc ở tầng hai. Mỗi ngày, vào lúc chín giờ sáng, ba giờ chiều và chín giờ tối, cậu sẽ mang thức ăn đến cho nó. Cậu có ba mươi phút để đi và về, nhân viên an ninh sẽ theo dõi từng hành động của cậu nên đừng cố gắng tiếp cận nó.”
Công việc của tôi là theo dõi Dorry qua màn hình và báo cáo lại những trạng thái bất thường của cậu ấy cho cô Emily. Từ huyết áp, nhịp tim đến nồng độ oxy trong máu hay nhiệt độ cơ thể, tôi phải ghi chép lại đầy đủ, nộp báo cáo vào cuối ngày để nhóm của cô ấy kê đơn thuốc phù hợp cho ngày hôm sau. Trong trường hợp khẩn cấp, tôi sẽ nhấn chuông báo động để nhân viên tầng bảy đến hỗ trợ kịp thời. Về việc tiếp cận, sau khi biết tâm lý của cậu ta có chút điên rồ thì hiển nhiên là tôi chẳng dại dột gì mà đẩy bản thân vào nơi nguy hiểm. Ba mươi phút là quá dư dả để tôi có thể đi lẫn về. Yêu cầu này tôi có thể làm được.
“Thứ hai, chỉ làm công việc của mình, không có lệnh của Viện trưởng thì không được phép can thiệp vào công việc của người khác. Dù đồng nghiệp có yêu cầu giúp đỡ thì cũng không được làm. Người không có chuyên môn đụng đâu cũng hỏng việc.”
Tôi ngoan ngoãn gật đầu. Cô Emily nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ rồi lại bắt đầu đăm chiêu.
“Quy tắc cuối cùng…” Cô cảnh báo. “Cậu không đến đây để kết bạn, và những người ở đây cũng không có nhu cầu kết bạn.”
“Cháu hiểu…”
“Tuyệt đối không được nói chuyện với Zero. Không cần chào hỏi, cứ lơ đi là được.”
“Zero?”
“Nó cũng tầm tuổi cậu, là bản sao của một thiên tài và cũng đồng thời là một nhà nghiên cứu. Ở đây không ai dạy cho nó về nền văn minh của nhân loại, nhưng nếu tiếp xúc với cậu, bản năng con người bên trong nó sẽ thức tỉnh. Hãy nhớ kỹ điều này, hiểm họa từ một thiên tài lúc nào cũng nhiều hơn lợi ích mà chúng mang lại.”
“Hiểm họa từ một thiên tài lúc nào cũng nhiều hơn lợi ích mà chúng mang lại”, đây là lần đầu tiên tôi được nghe những lời này từ chính miệng của một thiên tài đến từ ISH. Bố tôi là một thiên tài, và ông ấy cũng là một "hiểm họa”. Không ai thực sự hiểu rõ những thiên tài hơn chính bản thân họ, và lời nói của cô Emily chỉ càng khẳng định quan điểm mà Sciencez News[4] từng đưa ra cách đây mười năm là đúng đắn.
“Nhưng cô cùng chí hướng với họ, và cháu cũng vừa bước lên thuyền ngày hôm qua.”
“Tôi biết, Andrey.” Cô Emily gật đầu. “Nhưng tôi không thay đổi được gì cả. Số phận đã buộc tôi phải đi trên con đường này… Tôi không giống như cậu.”
“Nếu được lựa chọn một lần nữa, cô có muốn tiếp tục con đường này không?”
Cô ấy im lặng, cũng giống như chú Fred, cô ấy không trả lời được. Hay nói đúng hơn là cô ấy không muốn trả lời. Người ta luôn huyên thuyên về những cơ hội xa vời, nhưng khi cơ hội đến thì họ thường từ chối. Vì trong tâm họ biết rõ, đâu mới chính là con đường tốt nhất mà họ nên đi.
“Ở ngoài kia có rất nhiều thiên tài, và trong số họ, cháu tin rằng có người còn tài giỏi hơn cả bố cháu. Dù không có những thành tựu gây chấn động toàn cầu hay tiếng tăm lừng lẫy, nhưng cống hiến của họ cho nhân loại lại là điều mà những nhà khoa học vĩ đại của ISH không bao giờ làm được.”
“Cậu đang mỉa mai chúng tôi đấy à?”
Cô Emily dần mất kiên nhẫn. Hẳn là tôi đã chạm vào lòng tự tôn cao quý của cô ấy khi nhắc đến những nhà khoa học tài giỏi ngoài kia. Nhưng tiếc thay, đó lại là sự thật. Chẳng có sử sách nào ghi danh một tên tội phạm chỉ vì hắn ta mang bộ óc thiên tài. Và trong lịch sử cũng chưa từng có kẻ ác nào tình nguyện ngã xuống vì nhân loại.
“Cháu không có ý đó…” Tôi cúi đầu. “Cháu thành thật xin lỗi nếu lời cháu vừa nói khiến cô cảm thấy không được tôn trọng. Cháu chỉ muốn cho cô biết, ngay cả khi đã bước chân lên con thuyền này thì cháu vẫn có chính kiến riêng và sẽ không vì bất cứ lý do gì mà thay đổi.”
“Đó là lý do tôi không muốn cậu đến đây…” Cô Emily lẩm bẩm. “Cậu sẽ đạp đổ mọi công sức mà chúng tôi gầy dựng…”
Nói rồi, cô Emily rời khỏi phòng. Có lẽ cô ấy rất tức giận trước thái độ vô phép tắc của tôi. Nhưng thú thật thì tôi chẳng thấy mình sai ở đâu cả. Bố tôi đã nghe đi nghe lại điều này suốt nhiều năm, đến khi không chịu đựng nổi nữa thì dứt khoát đuổi tôi ra khỏi nhà. Tôi luôn thấy biết ơn ông vì điều đó, nhờ lang thang khắp nơi mà tôi gặp được nhiều người tử tế, học được nhiều bài học đắt giá và càng kiên định với quan điểm của mình nhiều hơn.
Ngày hôm sau, đúng bảy giờ sáng, tôi đến phòng số 23 để nhận việc. Người hướng dẫn tôi là một chị gái người Anh có mái tóc màu nắng đặc trưng của người bản địa. Tên của chị ấy là Hannah, một kiểm soát viên ở tầng ba và từng có khoảng thời gian chịu trách nhiệm giám sát Dorry trước khi tôi đến.
“Công việc không quá khó đâu, đừng lo.” Hannah nói. “Chỉ việc theo dõi màn hình, mọi thông số đều hiển thị sẵn. Nếu có thay đổi gì thì ghi chú vào cuốn sổ này, ghi rõ từng thông số, thay đổi bao nhiêu, thời gian nào, phải chính xác từng giây nhé.”
Tôi gật đầu trong vô thức khi đầu óc vẫn đang không ngừng chạy đua với những con số thi nhau bay nhảy trên màn hình. Tôi chẳng hiểu gì cả. Những ký hiệu đặc biệt, những thuật ngữ chuyên ngành luân phiên xuất hiện rồi biến mất. Không có một nguyên lý cố định nào. Bố chưa từng dạy tôi về những kiến thức liên quan đến thứ máy móc hiện đại này, trường học cũng không dạy. Chẳng có trường hội họa nào lại yêu cầu học viên phải theo dõi điện tâm đồ hay cân bằng phương trình hóa học. Việc của tôi là pha màu và phối cảnh, tôi chẳng có chút kiến thức nền tảng nào về y học để thực hành cả.
“Thật sự là không khó sao ạ?” Tôi ngơ ngác hỏi lại.
“Không khó,” Hannah lắc đầu. “Học thuộc ký hiệu sẽ không thấy khó nữa.”
Chị ấy bảo tôi hãy ghi vào mặt sau của sổ tay những thông số sinh học cần thiết để học thuộc. Đây là công việc không quá khó, nhưng với một kẻ tay ngang vào nghề như tôi thì ngay cả việc dễ nhất cũng khó thể hoàn thành.
“Nhìn ở đây đi,” Chị ấy chỉ tay vào góc trái phía trên màn hình. “Đây là HR, còn gọi là nhịp tim[5]. Ở trạng thái bình thường, nhịp tim của Dorry là 90 bpm, kỷ lục thấp nhất là 26 bpm và cao nhất là 157 bpm. Nếu vượt ngưỡng là bất thường, phải nhấn chuông ngay lập tức. Nếu vừa chạm hoặc giao động trong ngưỡng thì chỉ việc ghi chép lại.”
“157 bpm chẳng phải vượt quá giới hạn của con người rồi sao?”
Chị Hannah mỉm cười và lắc đầu. “Không thể lấy tiêu chuẩn của con người làm thước đo giới hạn cho bản sao. Các dự án nhân bản của ISH đều hướng đến mục tiêu tiến hóa nên bấy nhiêu đấy chẳng là gì cả. Có vài bản sao vượt trội về mặt thể chất, nhịp tim 200 bpm đi kèm với sức mạnh siêu phàm là chuyện rất bình thường.”
“Tiến hóa? Chuyện này thật sự có thể xảy ra ạ?” Tôi có chút nghi ngờ.
“Viện trưởng có thể làm được, và đội của ngài ấy đã từng làm được.”
Tôi ghi chép thông tin được chỉ dạy vào sổ, trong khi tai vẫn cố lắng nghe xem chị ấy có nói thêm điều gì nữa không. Hannah là một người kín miệng. Hẳn là như vậy. Chị ấy luôn lảng sang chủ đề khác khi tôi tò mò về Richard Campbell.
“Chỗ này là BP, được gọi là huyết áp[6].” Chị Hannah tiếp tục hướng dẫn. “Bao gồm huyết áp tâm thu SBP và huyết áp tâm trương DBP. Chỉ số SPB bình thường là 110 mmHg, DBP là 80 mmHg. Nếu giao động trong mức an toàn thì ghi chép lại, nếu quá cao hoặc quá thấp thì thông báo ngay.”
Tôi khẽ gật đầu.
“Nồng độ Oxy trong máu SpO2 nằm ở mức 95%[7]. Nếu giảm đột ngột phải thông báo cho đội hỗ trợ ở tầng sáu.”
“Vâng…”
“Nhịp thở RR trung bình 16 nhịp/phút[8]. Nhiệt độ cơ thể 37,5°C. Nếu có dấu hiệu bất thường phải thông báo ngay cho đội hỗ trợ tầng ba và tầng bảy.”
Ghi chép đầy đủ nội dung mà Hannah truyền đạt cũng vừa trọn vẹn ba trang giấy. Chị ấy nói rằng bấy nhiêu đây chỉ là thông số cơ bản nhất và thiết bị vi tính hoàn toàn có thể tự ghi chép cũng như xử lý mọi dữ liệu nhận được. Tuy nhiên, để làm quen với công việc thì tôi cần phải tự chép tay và theo dõi tất cả.
“Công việc có hơi nhàm chán, nhưng đừng ngủ gật đấy nhé.” Chị Hannah mỉm cười nhắc nhở.
Tôi không thể nói với chị ấy rằng chỉ mỗi việc ghi chép mấy kiến thức khô khan này cũng đủ khiến hai mắt tôi ríu lại. Chị ấy cứ vỗ vỗ vào vai tôi và động viên đủ thứ, còn tôi thì có cảm giác như mình sắp gục ngã đến nơi rồi.
“Làm sao chị có thể gắn bó với công việc chán ngắt này suốt mười năm thế…” Tôi giở giọng than vãn.
“Rồi nhóc sẽ quen thôi, còn nhiều công việc thú vị đang chờ nhóc lắm.”
Hannah nói rằng, nếu có cơ hội, chị ấy sẽ cho tôi xem bản báo cáo của dự án “tiến hóa con người” được trưng bày ở văn phòng của Richard Campbell. Có một phương pháp đặc biệt có khả năng kích thích và đẩy nhanh quá trình tiến hóa, ISH đang tiến hành thử nghiệm trên các bản sao và dự kiến sẽ công khai trước công chúng sau khi hoàn thành. Tuy nhiên, chỉ sáu tháng sau khi thử nghiệm phương pháp “tối tân” này trên bản sao hoàn hảo nhất thời điểm đó, vấn đề nghiêm trọng đã xảy ra. “Con chuột bạch” với xương cốt mục rữa vì không thể đuổi kịp tốc độ tiến hóa đã bị tiêu hủy thành tro bụi.
Dù phạm phải sai lầm nghiêm trọng và tốn kém rất nhiều chi phí cho việc bắt đầu lại, Richard Campbell vẫn luôn ôm hy vọng sẽ tạo nên kỳ tích và không ngừng huy động nhà đầu tư. Nguồn vốn từ doanh nghiệp dầu mỏ của gia đình không đủ để duy trì những dự án nghiên cứu liên tiếp thất bại, chính điều này đã buộc Richard phải tiến hành một loạt kế hoạch vô nhân tính khác nhằm đạt được mục đích. Từ “nhân bản” cho người giàu, ông ta bắt đầu cung cấp bản sao cho bất cứ cá nhân hay tổ chức nào sẵn sàng chi trả khoản tiền lớn. Một mẫu gen thu thập từ nguyên thể sẽ được nuôi cấy thành bốn, năm, thậm chí là hàng chục phôi thai để đạt được số lượng lớn bản sao phục vụ cho mục đích kinh tế. Dự án “tiến hóa” vẫn dậm chân tại chỗ trong khi nhân bản con người và dược phẩm tăng trưởng ngày một thành công. Một bản sao năm năm tuổi đã đạt tiêu chuẩn toàn diện của một con người trưởng thành và hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu hiến tạng.
Richard Campbell lựa chọn nhóm bản sao F2 – những sản phẩm nhân bản lần thứ hai tính từ tế bào gốc, nhằm mục đích bán tạng cho các tổ chức y tế phi chính phủ, các bệnh viện nổi tiếng thông qua bên thứ ba và ăn chia lợi nhuận. Ngoài ra, ông ta còn phát triển và đào tạo phiên bản thứ ba – gọi chung là nhóm F3, trở thành những “vũ khí chiến tranh” hình người để phục vụ cho quân đội. Dự án “dược tiến hóa Prolixium” vốn được bảo mật tuyệt đối trong quá trình kích thích tăng trưởng của các bản sao, cũng trở thành món mồi ngon trên “bàn tiệc kinh tế”.
“Sao không thấy báo chí nhắc gì về việc này nhỉ?” Tôi tò mò.
“Chỉ có những ai trực tiếp làm việc với Viện trưởng mới được quyền biết về thông tin dự án.” Hannah giải thích. “Vì vẫn còn quá nhiều rủi ro nên chưa thể công khai ngay được. Viện trưởng cũng không phải kiểu người bất cẩn nên ngài ấy sẽ không tùy tiện đẩy nhanh tiến độ đâu…”
“Chị có vẻ hiểu ông ấy nhỉ?”
“Ở đây ai cũng hiểu ông ấy,” Hannah đáp. “Ngoại trừ Emily, những người còn lại đều tôn trọng Viện trưởng.”
Emily? Người phụ nữ trông có vẻ là biết rất nhiều về ISH, nhưng cũng có vẻ như không được lòng đồng nghiệp. Emily luôn cô độc. Ngoại trừ người thanh niên đi cùng vào ngày đầu tiên tôi đến đây thì những người còn lại hình như luôn cố tìm cách để tránh mặt cô ấy. Và Emily cũng không đến gặp tôi. Cô ấy giao việc cho chị Hannah qua điện thoại. Chị nói, mọi công việc liên quan đến người phụ nữ đó đều được giải quyết qua bộ đàm.
“Đúng là một người lập dị…” Chị ấy nói khẽ. “Đừng đến gần bà ta, cũng đừng tin vào những lời bà ta nói.”
Tôi có chút bất ngờ. Câu nói này, tương tự như quy tắc Emily yêu cầu tôi không được đến gần Zero. Rốt cuộc thì tôi chẳng biết mình nên tin tưởng vào ai cả. Chú Fred chỉ nói những lời trái ngược với dặn dò của Emily, còn chị Hannah thì khuyên tôi đừng đến gần cô ấy. Tôi không biết cô Emily là loại người như thế nào, cũng không biết lời chú Fred nói có bao nhiêu phần trăm là thật. Và Hannah, chẳng có lý do gì để tôi liều lĩnh đặt niềm tin vào một người mà giây trước còn tỏ ra dè chừng tôi nhưng giây sau đã thành thật về tất cả.
“Cô ấy bảo em không được tiếp cận Dorry, và đừng cố gắng bắt chuyện với Zero.”
“Dorry đang bất ổn nên không được tiếp cận là đúng.” Chị Hannah tò mò. “Nhưng bắt chuyện với Zero thì có vấn đề gì nhỉ?”
Chị ấy hỏi. Và tôi chỉ lắc đầu. Tôi còn chẳng biết người tên Zero đó là ai. Những thông tin ít ỏi về đối phương là do cô Emily cung cấp: cậu ta tầm tuổi tôi, là bản sao của một thiên tài và cũng đồng thời là một nhà nghiên cứu. Điều đặc biệt nhất là cậu ta không được tiếp xúc với nền văn minh của nhân loại.
“Zero là ai vậy ạ?”
“Chị không biết vì sao người ta lại gọi thằng nhóc đó là Zero.” Hannah khẽ chau mày. “Mã định danh của nó là TLC-02, và là bản sao của Viện trưởng Richard.”
“Tại sao lại là 02?” Tôi hỏi. “Em cứ nghĩ mã số dùng để chỉ thế hệ?!”
Có một quy tắc trong nội bộ ISH. Những bản sao không được đặt tên như con người mà sẽ dùng mã định danh để phân chia thế hệ. Chị Hannah giải thích rằng, mã chữ là tên viết tắt của nguyên thể và mã số là để chỉ thế hệ – hay còn gọi là thứ tự của phiên bản được tạo ra. Thế hệ đầu tiên được nhân bản từ tế bào gốc là mã 01, tương tự với thế hệ kế tiếp là mã 02.
“Vì nó là phiên bản thứ hai. Có vẻ như phiên bản thứ nhất đã thất bại nên Viện trưởng phải bắt đầu lại và TLC-02 ra đời.” Chị Hannah thoáng trầm ngâm. “Theo quy tắc thì phải là RCC-02 mới đúng. Mọi người đều thắc mắc về điều này, nhưng không ai dám hỏi thẳng ngài ấy.”
“Ngay cả Zero cũng không biết ạ?”
“Thằng nhóc đó có bao giờ quan tâm đến đâu…” Hannah thở dài. “Vì là bản sao của Viện trưởng nên đầu óc nó chỉ có nghiên cứu thôi. Thậm chí, nó còn tham vọng hơn ngài ấy gấp trăm lần.”
Một bản sao – hay có thể nói là Richard Campbell phiên bản trẻ, với tham vọng to lớn hơn cả nguyên thể, hiển nhiên sẽ là người thừa kế hoàn hảo nhất nếu ông ta qua đời. Nếu không được dạy dỗ về nền văn minh của nhân loại, cậu ta sẽ hoàn toàn mất đi nhân tính và không thấy tội lỗi trước những hành vi sai lầm. Cậu ta sẽ kế thừa ISH và sẽ lại tiếp tục phát triển nó theo con đường phi pháp mà Richard Campbell đã vạch sẵn.
“Dù là bản sao của một thiên tài, nhưng Zero có gì đó rất kỳ lạ…” Chị Hannah bất giác nhìn quanh, rồi ghé vào tai tôi, nói nhỏ. “Bộ não của cậu ta có cấu trúc rất bất thường, và mọi thông tin liên quan đến con người đều bị đào thải.”
“Vậy điều mà cô Emily nói…”
“Có lẽ là bà ta có ý khác…” Chị Hannah tỏ vẻ đăm chiêu. “Đôi lúc, chị thấy Zero cứ hành xử như là một bản lỗi vậy. Không tin thì quan sát thử xem, thằng nhóc đó kỳ lạ lắm.”
_____
[1] Siêu miễn dịch (SI – Super Immunity), nghĩa trong truyện là khả năng sản xuất kháng thể phòng bệnh tuyệt đối.
[2] Tương tự với hiệu ứng vịt con (Baby duck syndrome). Mục đích trong truyện là để tránh trường hợp bản sao quen thuộc với sự tồn tại của các nhà nghiên cứu và không tuân theo mệnh lệnh của Viện trưởng.
[3] Hội chứng Hoại Tế bào Bội nhiễm (CDS - Cellular Degeneration Syndrome): Lỗi đặc trưng hình thành do sai lệch trong quá trình sao chép ADN, dẫn đến sự tích tụ của các bội nhiễm vi mô (lỗi phân bào) khiến tế bào tự phân hủy hoặc thoái hóa sớm. Tác giả sẽ giải thích rõ khái niệm này ở các chương sau.
[4] Trang báo chuyên cập nhật tin tức khoa học trên toàn cầu.
[5] Nhịp tim (HR - Heart Rate) của người trưởng thành sẽ rơi vào khoảng 60 - 100 bpm (nhịp/phút).
[6] Huyết áp (BP - Blood Pressure) ở người trưởng thành là dưới 120/80 mmHg.
[7] Chỉ số SpO2 (Saturation of Peripheral Oxygen) ở người khỏe mạnh thường nằm trong khoảng từ 95% đến 100%.
[8] Chỉ số hô hấp (RR - Respiratory Rate) của một người trưởng thành đạt từ 16 - 20 lần/phút.
Bình luận
Chưa có bình luận