[Thật cơ à?] Đỗ Tùng Lài cười ha hả, hỏi. [Này, chị của đằng ấy là đàn bà con gái còn như thế, chú em à, cậu thật sự sẽ không phải là người như vậy đâu nhỉ? Dù sao thì không cùng một loài thì chẳng sống với nhau được.]
Nguyễn Thành Thuyên ngồi dưới một tán cây, tay cầm chiếc chén vốn nên đựng trà, giờ lại đổ đầy nước lã mà thở dài.
- Tiếc là không biết rành rọt câu chuyện đó, tôi mà có cơ hội nghe được hết thì tôi sẽ cười đủ ba ngày ba đêm trước mặt bà chị hai nhà tôi. Còn về chuyện anh nói ấy hả? Về mấy loại mỹ đức khác thì tôi không chắc chắn lắm, nhưng tôi không phải là người thích ép buộc chuyện tình cảm.
Bây giờ trời đang chập chững tối, đoàn quân tiếp tục chọn nơi cao ráo gần nguồn nước để nghỉ chân. Mọi người ai làm việc nấy, chỉ có Nguyễn Thành Thuyên lẩn ra một góc, ngồi lẩm bẩm một mình.
Biết làm sao được đây, nếu có người bắt gặp cậu đang nói chuyện với một chiếc chén, có khi người đó sẽ nghĩ cậu bị điên.
Mà người điên thì không được theo quân đánh trận.
[Vậy à.] Hình ảnh của Đỗ Tùng Lài hơi lập lờ theo sự rung động của mặt nước trong. Gã ta cười, dường như lúc nào Nguyễn Thành Thuyên nhìn gã, thì gã lúc nào cũng nở một nụ cười không tươi rói như nắng mai cũng đầy vẻ nhẹ nhàng yêu chiều.
Lại nhìn gã lúc này đây, qua hình bóng nhìn như chỉ cách một lớp nước, thực tế lại xa muôn núi nghìn sông, mắt Đỗ Tùng Lài sóng sánh như hồ thu, khuôn mặt tựa ngọc được phủ lên một lớp sơn màu vàng nhạt, trong đôi mắt kia vẫn phản chiếu ánh nến cháy lập lòe. Trông gã giờ đây giống như một bức tranh xuất phát từ tay của một họa sư thuộc hàng nhất đẳng.
Nguyễn Thành Thuyên cảm thấy má mình nóng hâm hấp, may thay trời cũng chập chững rồi, ráng chiều tà phủ lên vạn vật, khiến cho chút thay đổi nhỏ kia có lẽ cũng chẳng lọt vào mắt Đỗ Tùng Lài được.
- Sao? - Cậu bất giác hỏi một câu không đầu không đuôi.
[Cũng chẳng có gì.] Đỗ Tùng Lài nói. [Chỉ là thời gian hai ta trò chuyện ngày một ít đi. Anh cô đơn lắm, cậu biết mà, giờ anh chẳng ra khỏi cửa được.]
- Tôi… - Nguyễn Thành Thuyên mấp máy môi. - Chờ khi đến Lục Xu, có lẽ sẽ có nhiều thời gian hơn.
[Ha ha ha.] Gã ta lại cười. [Anh nói chơi thôi, đừng nghiêm túc thế. Cậu tòng quân chiến đấu vì bảo vệ trăm họ nhân dân và cùng ngàn dặm non sông, sao anh lại có thể vì tình riêng của bản thân mà níu giữ cậu chứ?]
“Nghe cứ như, người vợ nhỏ ở nhà nói với chồng rằng ‘Đừng lo cho thiếp’ khi chồng chuẩn bị đi đánh trận ấy.” Cậu nghĩ thầm. Chẳng biết vì cớ gì, cậu không phản bác câu này, cứ như đang ngầm thừa nhận với lòng mình rằng Đỗ Tùng Lài chính là “cô vợ nhỏ” kia.
Nguyễn Thành Thuyên thú thật, cậu thấy sắc nổi lòng bất chính.
Đỗ Tùng Lài đẹp theo một cách kỳ lạ mà bản thân cậu chưa thấy qua bao giờ. Bình thường không phải do cậu ít tiếp xúc với người đẹp, cậu đi dạo khắp phủ Tuyên Định thì thấy mười người hết chín người con nhà không phú cũng quý. Mà người giàu thì đương nhiên sẽ thích cái đẹp, nên đi lấy vợ đẹp, sinh con sao cho đẹp, cũng tiện để khoe khoang với kẻ đồng liêu.
Nhưng những người đó ấy hả, cậu nhìn chán rồi. Cậu đầu thai ở nhà trọng thần vọng tộc, mắt cao hơn đầu, từ lúc ra đời đã định sẵn rằng cái tính kiêu căng là điều không thể tránh khỏi. Nhưng có lẽ vì cái cảm giác xa cách muôn sông nghìn núi lại tựa ngay trước mắt này, cũng có lẽ vì bóng dáng của Đỗ Tùng Lài in lên mặt nước mong manh trong chiếc chén men ngọc, khiến cậu có cảm giác như đáy mắt gã cũng đong đầy dịu dàng. Cái sự mập mờ chẳng tỏ rõ ấy khiến lòng cậu ngứa ngáy.
Đỗ Tùng Lài giống như hiện thân của sự phồn hoa thịnh vượng độc nhất vô nhị. Gã có cái khí chất cao sang mà không phải cậu ấm cô chiêu nào cũng có thể so được. Chỉ cần liếc nhìn gã một cái, thì trong mắt sẽ tự động hiện lên hình ảnh phố sá sầm uất, cổng son thếp vàng, gấm lụa như mây. Điều đó khiến cho Nguyễn Thành Thuyên có cảm giác mình vẫn chưa rời khỏi nơi tráng lệ rực rỡ nhất trong các tỉnh vùng biên giới phương Bắc kia.
Cái loại “đẹp” này, không thể được định nghĩa đơn giản trong một từ “đẹp” nữa. Đáng tiếc Nguyễn Thành Thuyên vốn chẳng thiết tha sách vở, nên trong chốc lát chẳng tìm ra được từ nào thích hợp để miêu tả. Tuy cậu có thú thưởng trà của bậc thư sinh phong nhã thanh tao, nhưng không có nghĩa là cậu thích đàm luận văn chương thi từ.
Cậu nghĩ mình nên ít nói chuyện với Đỗ Tùng Lài lại. Bởi nếu cứ thế này thì cậu sẽ chẳng thể nào dừng việc nhung nhớ chăn ấm đệm êm ở phủ nhà họ Nguyễn.
Bên ngoài lạnh lắm, lại đang lúc đầu đông, tuy sương giá thấu xương vẫn chưa ngùn ngụt kéo đến, nhưng những cơn gió khắc nghiệt đã háo hức mà nhảy múa khắp nơi rồi. Tuy Nguyễn Thành Thuyên có dãi nắng dầm mưa, bất chấp gió rét sương lạnh ngày ngày đến bãi tập ngoài ngoại ô để luyện võ đấy, nhưng cái lạnh ở Tuyên Định sao sánh bằng nơi rừng sâu núi thẳm?
Con cái xa nhà chính là chịu khổ, ông bà ta nói chẳng sai mà.
[Sao lại im rồi?] Giọng Đỗ Tùng Lài vang lên, kéo cậu về giữa những suy nghĩ rối ren. [Anh thấy cậu có cái thói hay mất tập trung lắm nhé. Lúc nói chuyện cứ hay nghĩ đi đâu không à, gọi hai ba lần mà vẫn chẳng phản ứng gì cả.]
- Tôi xin lỗi. - Nguyễn Thành Thuyên trả lời. - Tật có từ nhỏ rồi, không sửa được.
[Không sửa cũng có sao đâu mà.] Gã ta cong mắt, ánh sáng trong đôi con ngươi tối màu kia như đang tản ra, rồi lập tức hợp lại, khiến cậu ngơ ngẩn trong chốc lát, chỉ chốc lát thôi, không quá dài đủ để Đỗ Tùng Lài nhận ra. [Thấy đến giờ cậu cũng không sửa được, vậy chắc người nhà cậu cũng không ép buộc cậu phải sửa. Còn anh thì chẳng thấy phiền hà gì khi kéo cậu về từ chín tầng mây hết.]
[Với lại…] Gã nháy mắt với Nguyễn Thành Thuyên. [Tên cậu đọc cũng êm tai, anh gọi thuận miệng lắm.]
Nguyễn Thành Thuyên luôn cảm thấy miệng của Đỗ Tùng Lài như bôi mật, từng câu từng chữ đều có ý chọc ghẹo người ta.
- Vậy còn của những người khác thì sao? - Cậu hỏi, giọng nói vẫn thong dong bĩnh tĩnh như thường ngày.
[Hở?] Đỗ Tùng Lài hơi nhướn đôi mày mảnh mai của mình, dường như chẳng ngờ cậu sẽ hỏi câu này. [Những người khác, cha thì anh gọi là “cha”, ông thì anh gọi là “ông”, còn lại toàn xưng “cậu” với “mi”. Sao nào, hài lòng không cậu tư Thuyên?]
- Hài lòng gì chứ. - Nguyễn Thành Thuyên lầm bầm trong họng. Đoạn, cậu nghe thấy tiếng gọi của Đội trưởng Dương Lễ, vậy nên bèn nói với bóng người trong chiếc chén trà men ngọc. - Tôi bị gọi đi rồi, ngày mai gặp, à, mai mà không được thì ngày mốt, nói tóm lại sẽ không lâu đâu.
Nghe như cậu đang dỗ dành Đỗ Tùng Lài hãy kiên nhẫn chờ cậu vậy.
Có lẽ chính bản thân Đỗ Tùng Lài cũng nghĩ giống cậu, nên gã bật cười, giọng cười sang sảng, thoái mái, như chẳng có gì trói buộc được, ngoài trừ chính bản thân gã.
[Ừ, anh sẽ chờ cậu mà.] Gã nói. [Chờ cậu đến lật thẻ bài anh.]
Nguyễn Thành Thuyên cau mày. Thấy thế, gã không đùa nữa.
[Nhớ cẩn thận nhé.]
Từ lúc cậu theo quân đến Mộc Tho, thì mỗi lần kết thúc cuộc trò chuyện, Đỗ Tùng Lài đều nhắc nhở cậu hãy cẩn thận.
- Chẳng sao hết. - Cậu nói. - Quân của bọn tôi chủ yếu vận chuyển lương thảo, nên trên đường đi có lẽ sẽ chẳng gặp nguy hiểm gì đáng nói đâu.
[Cẩn thận vẫn hơn mà.]. Ánh mắt Đỗ Tùng Lài lại lần nữa sóng sánh như nước hồ thu. [Nhớ nhé?]
- Tôi biết rồi. - Nguyễn Thành Thuyên gật đầu, sau đó cậu tiện tay tưới nước cho gốc cây vừa nãy mình ngồi, rồi mới cất chiếc chén đi, chạy lại chỗ đội của mình.
Đỗ Tùng Lài nhìn khuôn mặt điềm đạm ôn hòa in trên bóng nước biến mất, ngồi thừ người ra đấy một lát. Sau đó, gã đưa ngón tay khuấy khuất nước trà màu vàng nhạt bên trong, thở dài.
- Anh muốn gặp em quá đi, nhưng giờ chưa được.
Hiện tại gã vẫn chưa có cái cớ gì để rời Kinh Đô. Hoàng Đế hiện tại là một tên đa nghi, lại cuồng kiểm soát, dã tâm lớn đến mức muốn đè ép, ước có thể nắm tất cả vọng tộc trong lòng bàn tay. Nếu Bùi Thái Tổ còn sống thì chắc chắn tức điên, bởi ông sẽ có thể nhìn thấy thằng con quý hóa của mình chạy băng băng trên vết xe đổ của Phế Đế họ Trịnh nọ.
Có điều Phế Đế thì muốn diệt sạch, còn Hoàng Đế thì có lẽ chỉ muốn diệt nhưng gia tộc không nghe theo ý mình. Bùi Thái Tổ là người có uy vọng rất lớn, ông trao cho vọng tộc quyền lực có thể xưng bá một phương vẫn có thể yên tâm kê cao gối mà ngủ, nhưng con ông lại không như thế.
Dù sao cũng chẳng khác nhau là mấy, Thời Trịnh Phế Đế, chẳng phải cũng vì ông ta nghĩ rằng không thể kiểm soát vọng tộc, sợ họ thấy mình vô dụng, có ý nghĩ muốn lật đổ ngai vàng của nhà họ Trinh nên mới nảy ý nghĩ muốn nhổ cỏ hết một lượt, nâng người tài hàn môn lên bậc thế gia quyền quý sao?
Dù sao thì hàn môn không có thế lực ăn sâu bén rễ đầy vững chắc như vọng tộc.
Nhưng sau cùng, chẳng phải nhà họ Trịnh vẫn bị lật đổ, nhà họ Bùi lên nắm quyền sinh sát, vật đổi sao dời triều đại thịnh suy vẫn là đạo lý bất thành văn à?
Hoàng Đế hiện tại hiệu Trạch Thiên, tôn gọi là Trạch Thiên đế, không thể nói là không có tài. Lúc hắn còn là Thái tử thì được rất nhiều triều thần yêu mến. Hắn yêu nước, thương dân là thật, hắn rất được Thái Tổ sủng ái Khi lên ngôi, hắn muốn học theo cách làm việc như sấm rền gió cuốn của cha mình, nhưng hắn ta quên mất, dù hắn là con của Bùi Thái Tổ, nhưng hắn lại chẳng phải Bùi Thái Tổ.
Theo như lời các trọng thần, thì chính là: “Không ai sánh bằng Bùi Hiệp Anh.”
Hắn không phải Thái Tổ Bùi Hiệp Anh, sao dám một tay che trời với vọng tộc chứ?
Trọng thần trong triều đình, ngoài nhà họ Phan, nhà mẹ đẻ của Thái hậu Phan Thị Minh Tuyết, một mực ủng hộ thằng cháu ngoại nhà mình, thì bốn nhà còn lại đều chẳng có dấu hiệu gì gọi là sống chết vì Hoàng Đế hiện tại.
À không, con trai của Đức Hữu quân cưới cháu gái Thái hậu, coi như nhà họ Lê bị kéo lên thuyền của Trạch Thiên đế rồi.
Họ Nguyễn ở tận Tam Mộc, trời cao Hoàng Đế xa, là đối tượng hàng đầu mà Hoàng Đế nghi kỵ, thêm các võ tướng thủ phương Tây. Các vị tướng vốn thân thiết vì đã từng cùng sóng vai tác chiến trên chiến trường, nên việc Trạch Thiên đế sợ việc họ Nguyễn nổi hứng liên kết các vị tướng lại tiến đánh Kinh Đô cũng không phải không có lý.
Vậy nên hắn mới chỉ hôn con gái nhà họ Phan gả cho nhà Đức Hữu quân. Trước hết Hoàng Đế cần phải lôi kéo một võ tướng trọng vọng về phía mình trước đã, một võ tướng ở gần hắn, để dễ bề kiểm soát. Nếu nhà họ Lê từ đó quyết trung thành với hoàng gia, thì Tả quân với hơn năm ngàn lính cùng một vạn năm thiết kỵ đóng giữ hai tỉnh Ba Bổn Ba Thạnh chính là lớp áo giáp vững chắc nhất bảo vệ hắn. Còn không thì ụp cho cái danh phản quốc bất trung là xong.
Bốn chữ “phản quốc bất trung” nặng ngàn cân, ai có thể chịu nổi chứ? Nhất là võ tướng, họ cả đời chinh chiến vì quốc gia, cuối cùng lại bị ụp cái tội danh đầy nhục nhã này lên đầu, dù có thành công đá Trạch Thiên đế xuống như Bùi Thái Tổ đã từng đối với Trịnh Phế Đế, thì cái danh “phản quốc bất trung” sẽ đeo bám tướng môn họ Lê suốt đời, đến tận trăm ngàn năm sau.
Thêm Đức Tiền quân Phạm Xuân Tú anh dũng thiện chiến, đóng ở phía Nam có quan hệ rất thân thiết với Thái hậu, nên nếu nhà họ Lê thật sự muốn phản, thì cho bà Bắc tiến dẹp loạn. Nếu thắng, chính là công thần của đất nước, nếu thua, thì vẫn là công thần của đất nước.
Năm xưa là anh em kề vai sát cánh vượt bao cảnh nghìn cân treo sợi tóc, nay lại vì “trung” mà tương tàn lẫn nhau.
Chắc Hoàng Đế sẽ rất vui khi thấy cảnh này.
Còn về văn thần, nhà họ Đỗ hiện tại như mặt trời ban trưa, đức cao vọng trọng, xa giá Đại học sĩ có tận tám ngựa kéo, vàng bạc châu báu, gấm vóc lụa là, dường như mọi vinh quang đều đổ vào nhà họ Đỗ, đến Phan tộc cũng thẹn khi so.
Bốn chữ “quyền khuynh triều dã” chính là để miêu tả một mạch nhà họ Đỗ. Cũng chính bốn chữ này khiến Đỗ tộc nhà tan cửa nát.
Đỗ Tùng Lài vẫn còn nhớ cái ngày mà ánh lửa rợp trời ở Đỗ phủ tại nơi rộn rã nhất của Kinh Đô, một mồi lửa thiêu cháy trọng thần đức cao chống đỡ nhà họ Đỗ, giết chết thân nhân của gã, tôi tớ hầu hạ gã từ tấm bé, nhưng người mà gã yêu quý, thương như thẻ tay chân.
Chỉ duy một người thoát nạn, chính là mẹ con Phan Khả Hân. Phải, kiếp trước Phan Khả Hân gả cho gã, khi nhà họ Đỗ bị diệt môn, chỉ có mình ả ta sống sót cùng đứa con thơ chưa đầy một tuổi.
Lúc đó gã quỳ trước bậc thềm nóng rẫy, nhìn ngọn lửa như quỷ dữ cắn nuốt hết những đặc điểm đại diện cho một thuở vinh hoa của nhà họ Đỗ. Sau đó, bóng dáng mảnh mai của người phụ nữ đó từ trong ánh lửa lao ra ngoài, trên tay còn bế đứa bé được bọc trong chiếc tã lót gấm hoa.
Từ cái khoảnh khắc mà gã nhìn vào mắt người vợ đầu ắp tay gối của mình, gã đã nhận ra, thủ phạm chính là ai.
Gã không có tình cảm với Phan Khả Hân, nếu không phải do Trạch Thiên đế đích thân chỉ hôn, có lẽ với tính tình của gã, thì sẽ ở một thân một mình đến hết kiếp.
Lúc đó Đỗ phủ chỉ còn lại một mảnh hoang tàn, kiến trúc hoa lệ tuy vẫn còn sừng sững nơi đó, cho biết đã từng có một gia tộc quyền thế đến nhường nào, giờ giờ người đã mất, chẳng còn ý nghĩa gì nữa.
Phan Khả Hân vẻ mặt hoảng hốt, nhưng sâu trong đáy mắt ả ta là một sự bình tĩnh đến đáng sợ. Ả nhìn Đỗ Tùng Lài, lòng ôm đứa bé, như đang thách thức.
Đứa bé đó là con của gã, nhưng mẹ nó chính là hạng phản đồ. Đỗ Tùng Lài có quyền nghi ngờ, nhưng lại không có chứng cứ. Cho dù có chứng cứ, gã cũng không thể nói. Chưa kể đến việc Đỗ tộc rơi đài, họ Phan chính là gia tộc “quyền khuynh triều dã’ tiếp theo, việc Đông Các Đại học sĩ là anh trai Thái hậu, Phan Khả Hân là con gái trưởng của nhà họ Phan, nếu gã sơ suất tí thôi, gã sẽ mất đầu. Gã mà mất đầu rồi, thì ai sẽ là người tiếp nối ý chí của ông cha Đỗ tộc đây?
Đỗ Tùng Lài không biết việc gã còn sống lúc ấy là tình cờ, hay do Ngài Hoàng ngự ngai vàng kia nổi lòng từ bi thương xót.
Nhưng gã biết, gã sắp mất đi đứa con của mình rồi. Gã đã mất tất cả chỉ trong một mồi lửa, giờ đến con của mình cũng chẳng thể giữ lại được.
Đỗ Tùng Lài đã từng hứa sẽ bảo vệ đứa trẻ đó, dùng tài hoa mà gã tự cho là kinh động đất trời, ngàn năm có một của mình để tạo ra một thế giới mà con gã có thể sống một cách ấm no sung túc.
Nhưng nhà họ Phan sao có thể để cháu ngoại của mình rơi vào tay Đỗ Tùng Lài, lúc này thân nhân mất hết, dòng họ mà gã luôn tự hào tưởng chừng như có thể trường tồn vĩnh viễn lại sụp đổ trong một sớm một chiều chứ?
Ba ngày sau đó, họ hàng ba tộc của Đỗ Tùng Lài lần lượt bị gán cho cái danh mưu phản, ức hiếp bách tính, dựa thế vinh hoa của ông tiền Cần Chánh điện Đại học sĩ ở Kinh Đô mà sống xa hoa lãng phí trong tình thế mà đất nước đang trong tình thế nguy nan - chống quân Xuyên ở phương Bắc. Không những vậy mà còn có bằng chững xác thực rõ ràng, hết đường chối cãi.
Gã nhìn người thân của mình ngồi xe tù lên Kinh Đô, bị chém đầu thị chúng mà lòng lạnh run.
Đỗ Tùng Lài tuy sống ở Hoàng thành từ nhỏ, nhưng vẫn rất thân thiết với họ hàng. Gã lại là con trai duy nhất trong nahf ở đời này, nên càng được yêu thương chiều chuộng. Gã hiểu rõ người nhà của mình, nào có chuyện họ đi ức hiếp bách tính, dựa thế vinh hoa chứ?
Đức Ngài kia vẫn giữ mạng cho gã, đày gã đến nơi xa xôi, như thể đang nể tình công lao của ông nội gã năm xưa mà cho gã sống. Nhưng chính vì thế, Đỗ Tùng Lài mới nếm trải cái gì gọi là “sống không bằng chết”.
Gã là người kiêu căng ngạo mạn như thế, tự hào nhất về dòng họ và tài hoa của bản thân, nay rơi vào cảnh sa sút, tài hoa chẳng có chỗ để thi triển, chẳng có quyền thế gì trong tay để lật lại bản án của gia đình, không bằng để gã chết cho xong.
Trạch Thiên đế là một con rắn độc địa, hiểu nhất cách làm lòng người ta đau đớn đến sụp đổ.
Kiếp này gã bày trò trên Kim Điện, đẩy Phan Khả Hân cho nhà họ Lê, chẳng biết là phúc hay họa nữa.
Bình luận
nuôi ong tay áo