Đám trẻ nhà thờ đều từng nghe qua truyền thuyết về người phụ nữ tóc đỏ, toàn thân mặc giáp rèn từ vẩy rồng trường sinh, khuôn mặt u huyền dưới ánh trăng. Dân làng gọi ả là Huyết Nữ Kinh Đô. Tuy chưa bao giờ gặp (vì tôi chưa từng đến kinh đô), nhưng hình ảnh đó ám ảnh tôi suốt một thời gian dài. Đêm nào tôi cũng mơ thấy ả, thanh gươm máu giắt bên hông, ngồi bên gốc cây như đợi chờ. Nhưng tôi chẳng bao giờ thấy mặt ả, cái nét u huyền người ta thường nhắc chìm trong đêm lặng.
“Đến rồi à? Mình đã chờ cậu rất lâu.” Ả nói. Không rõ tôi là ai trong mơ, dường như ả nói với tôi. “Lại đây nào, cuộc chiến kết thúc rồi.”
“Đấng tối cao không còn nữa, nhân giới rồi sẽ ra sao?” Ai đó nói, có lẽ là tôi.
“Không sao đâu, quân ác ma sẽ không bao giờ bén mảng đến vùng đất này nữa.” Ả dừng hồi lâu, những lời tiếp theo liên tục lặp lại trong nhiều giấc mơ. Tôi thấy một chi tiết chưa từng được nhắc trong lời sâm truyền, làn tóc đỏ người đàn bà búi kiểu xương cá, thắt cánh nơ hồng. Hoàn toàn trái ngược vẻ ngoài xa cách lạnh lùng của ả. Không rõ ả có mặc giáp đỏ rèn từ vẩy rồng trường sinh mà người ta hay nói không, khi nhớ lại, thứ bao bọc ả là một làn sương câm lặng. Ký ức về ả trong mơ cũng như làn sương, lúc mờ mịt tan biến, lúc dày không kẽ hở. Chỉ biết ả có mặc gì đó. “Nhưng nói mình nghe, cậu có yêu mình không?”
“Cậu biết là mình yêu cậu mà.” Tôi trả lời.
Thực lạ khi mơ như vậy về một nhân vật thần thoại. Người lớn kể, ả là một trong thất hoàng kỵ sĩ, những người đã bảo vệ nhân giới khỏi ác ma từ thuở khai sinh. Đấng tối cao trước khi lâm chung đã dùng tất cả sinh lực cuối cùng, dâng lên một dãy núi cao hơn mây bao bọc toàn bộ Vicnimt, để người dân an tâm rằng lũ ác ma sẽ không bao giờ quay lại. Người lớn gọi nó là dãy núi Sinh Mệnh. Cũng từ sau giấc mơ đó mà tôi mơ mộng trở thành kiếm sĩ. Tôi hình dung mình về làng trong bộ giáp bóng loáng, giắt gươm bên hông, đương thi hành nhiệm vụ từ kinh đô, khẽ cúi đầu chào Alice nay đã là thiếu nữ.
“Thiệt đó! Tớ đã tìm thấy hang ổ con rồng mà Huyết Nữ từng tiêu diệt.” Ralph bảo.
“Đủ rồi, sáng giờ cậu toàn lảm nhảm mấy chuyện trên trời.” Tôi nói. “Tớ ra bờ sông đây.”
“Không muốn kiểm chứng truyền thuyết à?”
“Rủ Hubert đi, tớ không hứng thú, vậy nhé.” Tôi nói rồi rời đi. Thực ra là có.
Tôi lớn lên trong ngôi làng nhỏ miền viễn bắc Vicnimt, nhỏ đến nỗi hoàng gia còn không thèm đặt tên. Người ta phải chỉ tay vào bản đồ rồi nói “ngôi làng này” để xác định nó. Thế đấy, đám trẻ mặc định cuộc đời bình yên chốn này mãi mãi, chẳng giây nào nghĩ đến việc đặt chân tới kinh đô hay bất kì ngôi làng nào khác. Chúng sinh ra ở đây, và sẽ chết đi ở đây.
“Fergus! Cậu đây rồi.” Hubert gọi. “Trưởng làng tìm cậu đấy, hình như chuyện gấp lắm.”
Đến nhà trưởng làng, hình như đây là lần thứ hai trăm bảy mươi mốt, nên tôi không sợ lắm. Tôi quen cái ánh nhìn đanh thép và chất giọng điềm đạm nặng trĩu của ông rồi. Thế là tôi hồn nhiên bước vào, Hubert đợi bên ngoài.
“Ông có chuyện cần làm rõ với cháu.” Trưởng làng nói, đứng cạnh cửa sổ, tay phải đút túi, tay trái vuốt râu. “Ngồi đi. Cà phê không đường hả?”
“Vâng,” tôi nói.
Ông rót cà phê từ cái ấm đồng rồi đặt lên bàn. Tôi làm theo lời ông. Kịch bản này lặp lại nhiều đến nỗi tôi còn không thèm nhìn ông nữa mà vội hớp ngụm cà phê.
“Hendrick bảo cháu vẫn thường xuyên trốn học thiên mệnh? Chuyện đó là thật đúng không?”
Lò sưởi vẫn lách tách sau lưng dù đang là mùa xuân.
Tôi bảo:
“Vâng, cháu không muốn làm tiều phu. Cháu đã nói như thế với giám mục, với cha xứ, và cả Hendrick nữa ạ. Mà hình như cháu chưa nói rõ lắm nên mọi người không hiểu. Phiền ông trình bày lại với họ, cháu tuyên bố cháu KHÔNG MUỐN LÀM TIỀU PHU, thưa ông.”
“Cháu muốn làm kỵ sĩ hoàng gia, đúng không? Chuyện đó hoàn toàn dễ hiểu, cháu có tố chất, điều này không thể bàn cãi. Nghe này Fergus, ông chẳng muốn dập tắt ước mơ chút nào, nhưng dân quê chúng ta, ngay từ việc đặt chân tới kinh đô đã là ước vọng xa vời. Chứ đừng nói là vào học viện hoàng gia, hay gia nhập kỵ sĩ đoàn. Cháu có hiểu điều ông nói không, Fergus? Và giả sử, giả sử thôi nhé, một phép màu trên trời rơi xuống cho cháu cơ hội vào học viện hoàng gia, liệu cháu có sẵn sàng từ bỏ mảnh đất quê hương, nơi tất cả bạn bè cháu cư trú, mà một thân một mình đến kinh đô thực hiện ước mơ không? Cháu có đủ dũng khí làm điều đó không?”
Trưởng làng diễn thuyết một tràng rồi ngừng lại, dù tôi có ý chí kiên định cỡ nào cũng ít nhiều lay động trước lý lẽ của ông. Tôi bèn hớp thêm ngụm cà phê nữa. Ngưng vuốt râu và rút tay khỏi túi, ông nói tiếp:
“Nếu câu trả lời là không thì tốt nhứt đừng mơ mộng viển vông nữa mà nên tuân theo thiên mệnh. Cháu cũng mười ba tuổi rồi, qua tuổi nhập học sơ đẳng rồi, tự luyện kiếm không giúp cháu thi đỗ học viện hoàng gia đâu. Đám trẻ kinh đô được huấn luyện từ bé, học tập bài bản từ những trại tư thục mầm non, đến tiểu học, sơ đẳng. Hiện chúng bỏ xa cháu nhiều lắm.”
Trưởng làng đợi tôi phản bác, nhưng tôi vẫn im lặng, vùi mặt vô cốc cà phê, nên ông cứ nói:
“Dân kinh đô cũng không thể làm trái thiên mệnh, chứ đừng nói dân quê chúng ta. Vài tuổi nữa cháu sẽ lấy vợ, lập một gia đình yên ấm, sống hạnh phúc phần đời còn lại ở ngôi làng này. Mỗi sáng lên rừng đốn gỗ, trưa vợ mang thức ăn đến, chiều về bán gỗ cho thương nhân và quây quần bên gia đình. Cháu không thấy cuộc sống như vậy đỡ vất vả hơn sao? Bản thân việc đi ngược lại thiên mệnh đã là tội đáng bị vạ tuyệt, mấy năm qua ông phải thoả hiệp với giáo hội rằng Fergus sẽ sớm cải quy hành đạo. Vì mong muốn của mình mà ảnh hưởng đến người khác, cháu có thấy ích kỷ không?”
“Nhưng cháu không muốn vung rìu tới mãn kiếp, thưa ông.” Tôi nói, vô tình thấy Hubert dỏng tai nghe ngoài cửa sổ.
“Đó là nghĩa vụ của chúng ta, không phải lúc nào cũng được làm điều mình thích đâu, Fergus. Đôi khi việc cháu thích không nuôi nổi cháu, đôi khi phải học cách chấp nhận và hy sinh. Ông không biết điều gì làm cháu muốn trở thành kiếm sĩ đến vậy, nhưng đêm nay, hãy suy nghĩ về điều ông nói. Ông không muốn nghe Hendrick hay giáo hội hay bất cứ ai phàn nàn về việc cháu trốn học thiên mệnh nữa.”
Tôi thở phào, nhận ra mình đã nín thở nãy giờ. Uống nốt cốc cà phê, tôi cúi đầu và rời khỏi nhà. Hubert thấy vậy liền chạy đến vỗ về, nó nói:
“Bao nhiêu năm rồi vẫn bị cằn nhằn nhỉ?”
“Đáng ra nhà thờ nên vứt quắt tớ đi cho xong, tiều phu ấy à, tớ không làm đâu. Nếu hồi người ta mang tớ đến, họ cứ để tớ chết bờ chết bụi đâu đó thì giờ tớ đâu phải căng não thế này.”
“Nói tầm bậy nghe Fergus! Mọi người đều muốn tốt cho cậu thôi, xét về hoàn cảnh và xuất phát điểm thì làm tiều phu là phù hợp nhứt. Trưởng làng nói đó, giờ có đến kinh đô, cậu cũng không theo kịp đám trẻ ở đó đâu. Không ai chèn ép hay cố làm khó cậu hết, nếu có thì giờ cậu đã chết bờ chết bụi thiệt rồi!”
“Đến cậu cũng bênh người lớn hả? Nếu giáo hội không chấp nhận việc tớ làm trái thiên mệnh, thì tớ sẽ tạo ra một giáo hội mới, khi đó tớ sẽ là Đức cha Fergus!”
“Bậy luôn! Cậu biết vì sao những người tài giỏi đều không được đãi ngộ xứng đáng với công trình của họ không? Như lão Magrid Stanford chẳng hạn!”
Fergus nhíu mày, dè dặt hỏi:
“Ma-ma cái gì cơ?”
Hubert không đếm xỉa lời cậu, nói tiếp:
“Vì người ta không thể tôn một người sống lên làm thần. Tham vọng ấy… trước tiên là cậu phải chết cái đã!”
Fergus trầm ngâm tư lự những điều Hubert nói. Lá cây xào xạc trên đầu, gió thổi khẽ khàng mái tóc loà xoà phủ trán của cậu. Không gian lắng đọng quá, Hubert bèn xua tay:
“Thôi! Nghĩ nhiều chi mệt đầu, vô rừng chơi với tụi này nè, Ralph rủ vô hang gì gì của bà Huyết Nữ.”
“Không. Tớ muốn luyện kiếm, tớ cần luyện ngay bây giờ. Nếu không tớ sẽ chết vì cảm giác tội lỗi mất.”
Tôi chạy thẳng cẳng ra bờ sông. Để mặc Hubert - người vừa an ủi tôi - ở lại một mình.
Tôi xử đi xử lại mấy bài vung, đâm kiếm, kết hợp xoay người đến khi nhuyễn thì chuyển sang thử nhiều động tác mới, có tính thực chiến. Mãi tới đầu giờ chiều tôi mới nhận ra mình chưa ăn sáng, và cơn đói cồn cào ập đến thiêu rụi tôi trước cả ánh mặt trời. Nhưng tay chân bủn rủn không đứng nổi, thế là tôi nằm phè ra bãi cỏ, hai tay bưng mặt tránh nắng mà không ăn thua. Alice Ovantome bước tới, ngồi xuống cạnh tôi. Nàng mang theo giỏ bánh mì, mứt và nước ép cam.
“Chắc cậu đói rồi, cùng ăn nhé?” Nàng nói.
“Sao cậu biết mình ở đây?” Fergus hỏi.
“Lúc nào Fergus chẳng ở đây luyện kiếm, mình biết cả mà. Đừng nói nữa, mau ăn đi.”
Tôi chồm dậy, phết mứt lên bánh mì rồi tợp ngon lành. Alice cũng cầm lấy một cái, xé nhỏ từng miếng bỏ vô miệng. Sau đó nàng lấy từ trong giỏ ra chiếc khăn vải bông, lau mồ hôi đổ hột trên trán tôi.
“Lại bị rầy, phải không nào?” Alice hỏi. “Mỗi lần như vậy Fergus lại chui vào rừng luyện tập. Mình biết mấy lời trưởng làng khó nghe lắm, cậu đừng nghĩ ngợi nhiều. Mình cũng chẳng thể đưa lời khuyên gì cả, chỉ biết ở cạnh cậu thôi.”
“Cám ơn.”
“Mình có phiền cậu không, Fergus?” Alice nói.
“Không. Cảm ơn vì bữa ăn.”
“Nhưng quyết định của cậu thế nào?”
“Hừmmm… Lúc nãy mình buồn kinh khủng, cảm giác như ai đó quăng mình xuống đáy biển và âm thanh đột ngột biến mất. Tiếng cầu cứu của mình bị nuốt chửng, chỉ có thể tự thân ngoi lên. Nhưng lúc này mênh mông toàn là nước, từ giờ sẽ không ai tìm thấy mình nữa. Mình không biết đâu là nhà, cứ bơi vô định đến khi đuối nước và chết giữa biển, một mình. Mình cô đơn như vậy đấy, Alice ơi.”
Nàng dựa đầu vào bờ vai ướt mồ hôi của tôi, nói:
“Còn mình mà. Dù Fergus là tiều phu hay kiếm sĩ thì mình vẫn ở đây. Tại ngôi làng này, mãi mãi và mãi mãi.”
Tôi nghe tiếng sông róc rách bên tai, nghe tiếng thở Alice nhè nhẹ thanh bình.
“Trưởng làng nói đôi khi phải học cách chấp nhận và hy sinh. Chắc mình sẽ thử mở lòng hơn, cố học thiên mệnh. Và nếu không có gì thay đổi thì mình vẫn là tiều phu như lẽ thường. Nhưng mình muốn luyện kiếm song song, nhỡ mai này có cơ hội, mình sẽ không để tuột mất nó bằng mọi giá.”
“Fergus dũng cảm hơn mình nhiều, cậu dám đi ngược lại quy luật, tất nhiên không phải để ra vẻ khác người mà vì cậu thực sự biết mình là ai. Đối đầu số phận dù biết cửa ‘thắng’ rất hẹp. Đó là điểm mình thích ở cậu. Mình thì không như thế, mình không biết bản thân muốn gì.” Alice nói, mỉm cười nhìn tôi.
“Mình phải trở thành kỵ sĩ kiên cường nhứt thế giới.” Tôi nói, gần như thì thầm với chính mình. “Để bảo vệ làng, bảo vệ Alice trước bọn thị trấn.”
“Cậu nghĩ sao về Huyết Nữ, hả Fergus?” Alice đột nhiên hỏi. “Cậu kể đã mơ rất nhiều về ả, vậy nói mình nghe, cậu nghĩ gì về ả?”
“Nghĩ gì ấy à? Mình nghĩ ả nhiều góc khuất, mạnh mẽ nhưng cũng có lúc yếu lòng, và thiệt vĩ đại nữa.”
Khi mặt trời chìm nghỉm sau dãy núi, bầu trời rực màu tím thẫm, chúng tôi trở về. Alice hai tay cầm giỏ thức ăn, tôi sánh bước bên cạnh. Vừa đến cổng làng, chúng tôi đã nghe tiếng chí choé của Hubert và Ralph.
“Biết ngay là phóng đại!”
“Chuyện gì? Hang rồng hả?” Tôi hỏi.
Hubert cáu kỉnh nói:
“Chứ sao, đúng là có hang, nhưng trong ấy toàn băng. Chẳng có Huyết Nữ hay cái khỉ gì hết!”
“Này, kể cho trót! Cái hang còn hàng tá đường hầm. Chẳng phải do cậu nhát chết nên không dám đi tiếp?” Ralph lèm bèm.
“Đi tiếp cho mà lạc à? Phải chừa đường lui chớ!”
“Fergus, chắc cậu gan hơn thằng này, muốn khám phá cùng tớ không?”
“Tớ không đi, còn nhiều việc phải làm. Để dịp khác nhé.” Tôi đáp.
“Phải rủ Alice thì cậu ta mới đi cùng.”
“Thế Alice đi cùng bọn này nhé? Bốn đứa mình.”
“Chắc không được đâu, bà Ovantome biết sẽ nổi trận lôi đình.” Alice nói.
Vậy là từ lúc đó, tôi bắt đầu chăm học thiên mệnh, đều đặn vung rìu mỗi ngày. Thay đổi này khiến không chỉ chú Hendrick, mà cả trưởng làng và đám trẻ nhà thờ phải kinh ngạc. Mọi người nghĩ tôi đã chấp nhận làm tiều phu. Học thiên mệnh xong vào đầu giờ chiều, tôi ra bờ sông luyện kiếm đến kiệt sức mà nằm bẹp trên cỏ. Và Alice luôn xuất hiện đúng lúc, cho tôi gối đầu lên đùi, cho tôi bữa ăn thịnh soạn. Đôi lúc tôi dạy Alice vài đường kiếm cơ bản, đôi tay bé xíu của nàng huơ huơ kiếm đến là chết cười. Cũng có lúc nàng dạy tôi ma pháp, thần chú phát quang cùng nhiều phép đơn giản khác.
Có lần tôi nảy ý tưởng đưa ma pháp vào kiếm kỹ, thế là hai đứa ngồi xà quần cả buổi tìm các loại ma thuật mà kiếm sĩ có thể dùng trong thực chiến. Sau đó nàng cũng dạy tôi cách sử dụng.
Khung cảnh làm tôi nhớ tới một gia đình ấm êm mà trưởng làng đã miêu tả. Ngày qua ngày, tuần hoàn: Học thiên mệnh, luyện kiếm, ăn cùng Alice. Mong cuộc sống cứ thế này mãi, tôi thấy hạnh phúc, bình yên, song vẫn chứa chan hy vọng.
Nhờ luyện kiếm đều đặn, không một giây nào tôi quên khát khao cháy bỏng nhứt đời mình. Tôi làm vậy để không bị cuốn vào vóng xoáy. Đam mê tạm lắng, nhưng đến thời điểm, nó sẽ thức giấc bất cứ lúc nào.
Một lần, đương ngắm dãy núi Sinh Mệnh như mọi ngày, tôi chợt hỏi:
“Không biết lần cuối ác ma xâm lăng Vicnimt là khi nào nhỉ? Alice có nghe gì về chuyện đó không?”
Nàng nhấp nhổm tìm tư thế thoải mái trong lúc cố giữ đầu tôi yên vị trên đùi mình, nàng đáp:
“Lần cuối hả, hình như gần đây thôi.”
Tôi sửng sốt ngửa cổ nhìn Alice, mặt nàng chẳng có vẻ đùa. Gần đây là bao giờ? Nàng giải thích:
“Mình nghe mấy cô linh mục kể, mười mấy năm trước chúng còn xâm lăng vào tận kinh đô. Người ta gọi là cuộc kháng chiến ác ma năm 413. Đám trẻ con tụi mình không được đi học nên không biết đấy thôi, chứ ai ở kinh đô cũng biết hết.”
Thấy không khí hơi trùng xuống, tôi quyết định hỏi một chuyện chẳng ăn nhập gì, giọng cố giữ bình tĩnh:
“Cậu có để ý anh chàng nào trong làng không?”
“Suốt ngày ở với Fergus thì thời gian đâu mà để ý!”
“Vậy à,” tôi nói, đầu gối trên đùi nàng, tà váy nhà thờ của nàng thơm mùi nắng. “Thế sau này, cậu… ừmm…, tất nhiên khi nào ta đến tuổi, cậu… và cả khi nào cậu cần mình nữa, ừmmm… làm vợ mình nhé.”
Alice cười dịu dàng, vuốt ve mái tóc ngắn tủn của tôi. Nàng im lặng làm tôi ngượng quá chừng!
“Được chứ?” Tôi hỏi lại.
“Được mà,” nàng đáp.
Bình luận
Chưa có bình luận