Mùa xuân ở đây là đẹp nhất thế gian.
Đồng xanh trải đến chân trời bao bọc ngôi làng.
Xung quanh chẳng có gì ngoài khoảng không, lác đác vài căn nhà đất đắp lên từ khung tre, mái nhà phủ rơm. Ở đây người ta không trồng cây gỗ, hoặc họ giấu chúng đi rồi, chẳng có lấy ngọn cây nào trồi lên giữa đồng cỏ. Một khi đặt chân tới vùng đất này, không ai khả dĩ trốn thoát.
Dân làng không biết bờ kia cánh đồng tồn tại điều gì.
Hằng ngày họ làm nông, chăn súc vật, uống nước trên sông bắc, nghỉ trưa thì dùng bữa với cà rốt và khoai lang, nhâm nhi trà gừng. Khi nắng dịu, họ tiếp tục làm đến khi mặt trời hoàn toàn tắt ngóm sau cánh đồng. Dân làng thường tụ tập khu quảng trường vào chiều tối, đom đóm sẽ lao xao trên đầu con người.
Họ ngồi thành vòng tròn, kháo nhau về ngày làm việc hôm nay, tiến trình thu hoạch thế nào, đôi khi còn kể các mẩu thần thoại về ma trơi lẩn khuất trong đêm. Rồi đám trẻ sẽ xúm vào. Không hiểu sao chúng lại thích nghe những chuyện xa xôi đến vậy.
Ngày thường, đám trẻ chơi đùa bên hồ Jude - một cái hồ nằm giữa làng, đường kính vài trăm mét. Tuyên truyền rằng, hồ Jude từng là cánh cổng đưa các vị thần đến thế giới, từ đó mang lại bình yên thịnh vượng cho ngôi làng. Mùa thu hoạch, dân làng sẽ đem hoa lợi đến hồ, người lớn cầm đuốc giơ cao còn trẻ con chắp tay cầu nguyện. Nghi lễ tổ chức về đêm, khi lũ đom đóm vây càng đông nghĩa là các vị thần đã lắng nghe lời cầu nguyện của đám trẻ. Nếu không thì dân làng phải làm việc chăm chỉ hơn vào mùa vụ sau, để những lời nguyện cầu được lắng nghe. Đó là thông điệp mà tự thân mỗi người lớn ước lệ với nhau.
Ngôi làng đã thuộc về hồ Jude ngay từ thuở hồng hoang.
Mọi ngày cứ tiếp diễn.
“Hôm nay là ngày thứ mấy cậu đến?”
“Thứ ba thứ tư gì đó. Không nhớ lắm,” tôi đáp. “Tôi quay lại vì biết ở đây có tự do hoàn hảo.”
“Ồ, tôi hiểu, nét mặt cậu đã hiển lộ ngay từ đầu. Nhưng tôi phải nói một điều, cậu sẽ không bao giờ tìm được thứ gọi là tự do hoàn hảo đâu. Ở đây cũng vậy, sống trong tập thể thì phải hòa vào tập thể.”
“Tôi biết.”
“Thực sự cậu đang tìm một chỗ nấp, phải vậy không?” Trưởng làng hỏi, ông nhìn sâu vào mắt tôi như lần mò câu trả lời.
Tôi không đáp, chỉ mỉm cười rồi lặng lẽ rời đi.
Bước vào làng, tôi nghe âm thanh cười đùa của đám trẻ bên hồ Jude giao động không khí, ngang trung tâm, chúng liền cúi đầu chào khi thấy tôi.
“Chào ông,” chúng đồng thanh.
Tôi cũng lịch sự cởi mũ, cúi đầu chào chúng.
Ngôi làng rất rộng, nhưng nhà cửa thì chỉ thưa thớt vài căn nằm cách xa nhau hàng chục mét. Thậm chí có quãng gần trăm mét mới thấy một nhà dân. Khoảng trống rất nhiều, song người ta không làm đường: từ nhà này sang nhà khác, từ quảng trường đến hồ Jude, từ cổng làng đến trại súc vật… Chẳng có vệt nào quy định lối đi. Người dân nhớ thảy các vị trí.
Tôi thì chịu không nhớ nổi. Tôi không cần về nhà.
“Anh vẫn ở đây à?” Ai đó nói, tôi nhận ra ngay cô bé, tay cầm xô nước. “Ở đây thế nào?”
Gật đầu và nở nụ cười khẽ, “rất bình yên,” tôi nói.
“Họ bảo là anh vô gia cư? Hay anh thuộc kiểu ‘nhà mạo hiểm khai phá vùng đất mới’?”
Không rõ cô mặc gì, chỉ biết là có mặc gì đó. Một giọng nói trong trẻo, thuần khiết đánh động sâu trong tôi, càng nghe càng nặng lòng. Khi cô cất giọng, tôi thấy tâm hồn được thanh tẩy. Ôi, bé gái trên thảo nguyên, một tựa rất vừa cho một cổ tích bi ai.
“Anh không biết. Giá như được ở đây hoài…”
Tôi bước đến cầm giúp xô nước, lẽo đẽo sau vóc dáng trẻ thơ dại khờ, tôi vừa muốn ôm chặt em từ phía sau, vừa mong ta hãy cứ tản mạn thế mãi đến chân phương Địa đàng.
“Cảm ơn anh,” em nói. “Trước đây anh ở đâu?”
“Không nhớ lắm. Nhưng anh đoán nơi ấy chẳng tốt đẹp gì,” tôi đáp. “Thế còn em? Trước đây em ở đâu?”
“Khi vừa có ý thức, em đã thấy mình ở đây rồi,” em nói, ngập ngừng lựa chọn từ ngữ.
Tôi bước cạnh em, cả hai cùng đi trên cỏ xanh.
Thảo nguyên mênh mông những nếp đồi nhấp nhô, bầu trời chiếm quá nửa cảnh sắc. Vì không nhiều đồi núi hay nhà cửa, bầu trời ở đây rộng khủng khiếp. Không gian tràn ngập chim chóc líu lo, đâu đâu cũng thấy hoa thơm bướm lượn. Mấy con ong mùa xuân tung tăng. Xứ sở màu xanh và mặt trời, điểm xuyết những vệt bông trắng lửng lơ
Tiếng cười đám trẻ bên hồ Jude vẫn đồng vọng trên cánh đồng. Âm thanh ấy khiến tôi chợt nhớ một điều.
“Sao em không chơi cùng đám trẻ trong làng?” Tôi hỏi.
Tự nhiên thèm thuốc, nhưng ở đây thì lấy đâu ra, tôi bèn tưởng tượng bao Marlboro trong túi, rút một điếu và đặt giữa môi. Hình dung vị thuốc, tôi hít một hơi đầy.
Lần cuối tôi hút thuốc là khi nào? Không nhớ nổi…
“Em nghĩ em không được tạo ra với mục đích đó. Đám trẻ chơi với nhau rất tự nhiên, em không muốn xen vào. Vả chăng, em còn nhiều việc phải làm.”
“Em bao nhiêu tuổi?” Tôi hỏi.
“Người lớn không cho em biết, nhưng em đoán là chín. Anh nghĩ sao?”
“Chắc vậy,” tôi đáp. “Em không cần quá lo lắng. Đôi khi người ta cũng không biết mình đã tồn tại trên đời bao lâu, và từ khi nào. Con số không giúp người ta trưởng thành hơn, em biết đấy.”
“Mọi người bảo em là anh mười bảy tuổi.”
“Lạ thật, anh chưa từng nói về chuyện đó. Nhưng… ừ, đúng là anh vừa tròn mười bảy.”
Đoạn, con bé tiến vào một căn nhà đất xơ xác, tôi theo sau, trên tay vẫn cầm xô nước của em. Quan sát đứa trẻ từ tốn khom lưng, xin lại cái xô rồi bắc trên đống củi. Em búi tóc lên, cố định bằng một nhành cây nhỏ xíu. Em nói:
“Nghĩa là thế này, em thấy mắt mình mở nhưng cảm giác mắt đã mở sẵn rồi. Em cứ thế đi múc nước ở hồ Jude, quan sát đám trẻ nô bỡn ở đó rồi về nhà. Dù không biết nhà ở đâu, nhưng chân em thì biết. Trên đường em gặp anh, và dù chẳng có ký ức về chuyện đó, nhưng em biết anh đã từng đến đây vài lần.”
Tôi im lặng, cô bé cũng vậy.
Sau khi xong việc bếp núc, em dẫn tôi lên một triền đồi. Ngọn đồi thoai thoải, không quá dốc, không mất nhiều sức để trèo lên đỉnh đồi. Từ đây, khả dĩ nhìn thấy những ngôi nhà thưa thớt bọc quanh hồ Jude, đám trẻ vẫn nô đùa trông bé nhỏ hết sức, gió trời thổi từ mọi phía làm tóc tôi bay tứ tung, trại súc vật cạnh cổng làng phía nam. Ở đó, tôi ngắm sắc nắng, đoán bình minh chỉ vừa mới đây thôi.
“Anh cứ nằm đi. Cỏ ở đây mượt và sạch như thảm vậy.”
Tôi nằm xuống, gối đầu lên tay.
Bầu trời có những đám mây vón cục đặc sệt, đậm đà đến nỗi có thể ký tên. Ký tên ấy à… tôi sẽ ký gì nhỉ?
Tên tôi là gì?
Đúng như em nói, tựa một tấm thảm khổng lồ, đàn cỏ mềm chạm vào da tôi. Xoa dịu, vuốt ve, âu yếm cơ thể tôi. Liếp cỏ ôm tôi vào lòng, thực an toàn, không gì tổn thương được tôi lúc này. Đồng cỏ bao bọc tôi như thuở bào thai.
Cô bé cũng nằm xuống, cả hai cách nhau chưa đến một gang tay. Khung cảnh dâng lên trong tôi một nỗi hoài niệm vô bờ, việc này đã xảy ra trước đây. Nhưng tiềm thức ngủ yên trong bóng tối. Không cách gì lôi ra. Gần đây luôn là vậy. Luôn không thể nhớ những gì thân thuộc, việc đó làm tôi bất lực vô bờ.
“Vậy là sao, em nói rõ hơn được không?”
Đến lúc này, tôi nhận ra khuôn mặt con bé hoàn toàn trở nên hư ảo. Không còn sắc diện, cái búi tóc sau đầu vẫn ở đó, thân hình cao gầy, da trắng, ngực phẳng, đôi tai nhỏ đáng yêu, cả bờ môi mấp máy vẫn còn đó, nhưng đồng thời đã không còn gì cả. Như thể có ai vừa xoá sạch dấu vết về em trong khoảnh khắc.
Ít lâu sau, ký ức về khuôn mặt em cũng hoàn toàn biến mất. Tôi chỉ nhớ em từng có khuôn mặt, đó là điều chắc chắn.
“Có lẽ em chỉ vừa được sinh ra vài phút trước. Anh có hiểu thế nghĩa là gì không?” Cô bé hỏi.
“Nếu em nói vậy, anh nghĩ mình cũng mới được tạo ra gần đây.”
“Anh không hiểu rồi. Em hiện diện là để phục vụ sự tồn tại của anh. Em là dây rốn của anh.” Cả hai nằm bên nhau trên triền đồi, tôi quay sang nhìn khuôn mặt vô diện, nhưng em không nhìn tôi, cũng chẳng thể biết liệu em có nhìn tôi hay không. “Anh cũng là dây rốn của em.”
“Em tên gì?”
“Điều đó anh tự biết mà. Hai ta là một phần của nhau.”
“Anh không hiểu.”
“Rồi sẽ hiểu.”
Bình luận
Chưa có bình luận