Còn sống nhưng không phải người, không có hơi thở, được gọi là quỷ thi.
Đêm không trăng.
Khuya không tĩnh lặng. Thời tiết khô hanh, gió thổi qua heo hút làm lung lanh cành khô xơ xác, tạo ra âm thanh xào xạc cùng tiếng quạ kêu, tạo ra ảo giác đám dã quỷ đang thì thào nói chuyện. Bóng đêm bao phủ cả ngôi làng nhỏ, thấp thoáng từ xa là những mái nhà lụp xụp, nghiêng ngả như rơm như rạ.
Đường không bóng người, sương đêm vây lấy cả cánh đồng, hình thành bức tường vô hình vô dạng, tách biệt ngôi làng này khỏi thế giới ngoài kia.
Trong nghĩa địa càng là một mảnh hoang vu.
Đất thấm hơi người chết, cây không mọc nổi, ngược lại cỏ dại um tùm. Làng nhỏ, không xây được mộ đẹp khang trang, chỉ có những nấm đất cao nằm xen kẽ cùng bia đá khắc tên người chết một cách qua loa, hiếm hoi mới thấy có ngôi mộ được hương khói đầy đủ, đa phần là mộ hoang. Lâu dần có mưa, đất lún xuống bằng phẳng như cũ, lại có người xây mộ mới chồng lên, hai xác chung một mộ, có khi ba, bốn, năm, sáu cái chung mồ, lại chẳng có nhang khói. Hồn không được cúng đầy đủ, lâu dần quên cả tên, quên cả mệnh, lang thang vất vưởng.
Trong bóng đêm mờ ảo, lại có tiếng cuốc sắt bổ xuống đất. Từng nhịp từng nhịp, vung lên lại bổ mạnh xuống, nhắm đến một phần mồ nhô lên, đất tơi bị đào xới, chẳng mấy chốc đã lộ mảnh chiếu cũ kĩ.
Người chết không có gia đình người thân an táng, dân làng không ai bỏ tiền mua quan tài, chỉ dùng chiếu manh quấn xác, chôn ngay xuống đất.
Ánh sáng le lói của đèn dầu rọi lên lại toả ra màu đỏ, soi rõ bia đá hãy còn mới toanh, chữ được khắc trên đó xiêu xiêu vẹo vẹo, chỉ độc một cái tên, không rõ năm sinh năm mất.
Lưu Loan.
Bà goá Loan ở cuối xóm, sau khi chồng mất thì sống một mình, không giao lưu với hàng xóm. Đến tuổi ngoài bốn mươi lại phát hiện bụng mang dạ chửa, không ai biết cha đứa bé là ai, ngay cả bà cũng không rõ. Bao năm không ăn nằm với đàn ông lại có mang, dân làng đồn rằng là con của quỷ, khuyên bà bỏ đi. Goá Loan không nỡ bỏ, giữ lại muốn sinh con ra nuôi. Xui xẻo sức khoẻ bà kém, sinh nở khó, cả hai mẹ con đều không sống được.
Dân làng kéo đứa bé sơ sinh đã tắt thở ra khỏi người mẹ, cuốn xác cả hai vào chiếu, đem chôn ngay trong ngày.
Mồ mả còn chưa lạnh, đã bị đào lên.
Bóng đen kia dừng lại, bàn tay đeo găng vươn xuống mở lớp chiếu cũ ra, tiếng quạ đang kêu bỗng tắt nghẹn, gió cũng ngừng thổi, không gian im phăng phắc. Mùi hôi thối bốc lên, nhìn xuống thấy xác người đàn bà đang vào tình trạng phân huỷ, sọ đầu đã lộ xương trắng, thân dưới đã bị mối mọt dòi bọ rỉa gần hết. Thế nhưng đứa bé nằm bên cạnh vẫn hồng hào, tay nhỏ nắm hờ, mắt nhắm nghiền tựa như đang say ngủ. Nếu không phải mộ này được chôn đã bốn ngày, nhìn qua tưởng như nó vẫn còn sống.
Diêm Vu buông cây cuốc ra, đờ đẫn nhìn hồi lâu mới cúi người cẩn thận bế đứa bé lên. Đầu ngón tay anh chạm lên ngực nó, một sợi tơ xanh len vào ngay giữa tim đứa bé dò xét. Đôi mắt đen của anh lập loè, hiện lên tia kinh ngạc.
Không có trái tim, không có hồn phách.
Một oan hồn chậm rãi ẩn hiện đằng sau lưng Diêm Vu, phả ra hơi lạnh, đôi mắt không tròng của nó nhìn chằm chằm đứa bé, mãi sau mới cất lời với âm thanh như vọng về từ cõi xa xôi:
“Thưa thầy, nó vẫn còn sống. Con của con, nó chưa chết…”
Hồn goá phụ thì thào.
Diêm Vu không để tâm đến linh hồn người phụ nữ đằng sau, ngón tay anh khẽ động, chạm lên trán đứa trẻ. Một con bò cạp đen đúa từ tay áo Diêm Vu bò ra, cái đuôi nó ghim vào đầu ngón tay anh, để giọt máu đỏ từ bên trong chảy xuống trán đứa nhỏ. Máu vừa chạm da liền bị hấp thụ, bàn tay nhỏ nhắn khẽ động đậy.
Trong bóng đêm, một tia chớp loé lên rạch một đường sáng trên nền trời đen đặc, tiếng quạ kêu ré lên nghe thê lương não nề, hoà cùng nó là tiếng khóc xé lòng của một đứa trẻ sơ sinh, khóc đến nghẹn, lại như tiếng dã quỷ từ âm ti truyền đến. Vạn quỷ bỗng sôi trào, rục rịch bò dậy, lại bị Diêm Vu cưỡng chế đè xuống, không cho hiện thân.
Đứa bé mở mắt, đôi mắt đỏ ngầu nhìn chằm chằm Diêm Vu. Chốc sau, bàn tay nhỏ xíu mềm mại của nó vươn lên, nắm lấy ngón tay anh, lại truyền đến cái lạnh thấu xương.
Oan hồn của goá phụ Loan nhìn con trai mình, lại run sợ, nhoáng cái biến mất.
Quỷ thi vạn năm có một, ra đời trong đêm.
Diêm Vu đắp lại ngôi mộ cho goá phụ Loan, cẩn thận ôm thằng bé rời khỏi nghĩa địa, đến gõ cửa nhà trưởng làn
Nhà trưởng làng là ngôi nhà to nhất, đẹp nhất, nhưng nằm cách xa làng, phải vượt qua bao cánh đồng, men theo lối mòn, qua hàng cây xanh rậm rạp mới đến được nhà ông.
Trưởng làng vẫn còn thức, nửa đêm mà ngồi trong nhà pha ấm chè, ngồi thẫn thờ trên sạp gỗ như đang chờ đợi. Vừa nghe tiếng gõ đều ba nhịp là đứng dậy, vội vã chống cây gậy chạy ra mở cửa đón Diêm Vu vào trong, rồi cũng vội vã khép cửa lại, cài then khoá chặt.
Diêm Vu mặc áo choàng đen trùm kín người, sương thấm ướt cả lưng áo, từ bả vai xuống eo còn vắt cái khăn trùm đỏ đô, hai cánh tay ôm trước ngực đỡ một vật nhỏ dưới lớp khăn kín mít. Nhà trưởng làng kín như bưng, gió không thổi lọt vào, nhưng từ khi anh bước vô trong, không gian trong nhà nhỏ chợt lạnh ngắt, nhiệt độ như hạ thấp xuống. Trưởng làng tê cứng tay chân, phải lập bập đi chong đèn, thắp nến. Giữa thế kỉ hiện đại, trong ngôi làng này lại không có công cụ điện, trong nhà trưởng làng càng cổ xưa giản dị hơn, vật dụng chiếu sáng là cây đèn dầu treo trong góc nhà và giá cắm nến trên tủ đầu giường.
Mặt Diêm Vu tái xanh vì hơi lạnh, anh còn phải hít hà vài hơi mới ổn định được, trưởng làng rót trà ấm đưa cho anh, nhưng Diêm Vu từ chối.
“Sao rồi?”
Ông sốt sắng hỏi, trong lòng bất an, bồn chồn không yên.
“Trưởng làng.” Diêm Vu vừa ngồi xuống liền vén cái khăn trùm trên người mình, lộ ra đứa nhỏ mình đang ẵm trong lòng cho ông xem: “Lão nói đúng, là thi quỷ hiện thân.”
Sắc mặt trưởng làng xám ngoét.
“Tại sao lại như vậy?”
Bàn tay nhăn nheo đầy đốm đồi mồi của lão khẽ giơ lên rồi rụt lại, không dám chạm vào người đứa bé kia.
Quỷ thi, sống như người nhưng tàn độc hơn quỷ, cắn nuốt oán hồn, âm khí cực nặng nề, dùng vạn trùng cùng ngàn linh hồn oán nhi luyện thành, là tay sai trung thành tuyệt đối. Một trong những tà thuật cổ xưa đã bị thất truyền từ lâu, sự ra đời của nó là vi phạm lệnh trời, thiên lôi trừng phạt.
Mấy trăm năm về trước, tộc Diêm cũng là vì tạo ra thứ này mà dẫn đến hoạ diệt tộc.
Dân tộc Diêm sống tách biệt với thế giới, ẩn dật trong rừng rậm núi cao tận cùng của trái đất, nơi khắc nghiệt hơn cả rừng Amazon thời nay. Mặt trời không thể chiếu đến, bóng đêm ngự trị, cây cao che cả bầu trời. Người Diêm sống cùng thú rừng, ăn ở cùng rắn rết, có dị năng chế ngự vạn quỷ, am hiểu tà thuật cổ, điều khiển cổ trùng. Tương truyền họ là con của trời, lãnh địa của họ được thần bảo vệ, không ai có thể đánh chiếm. Thế nhưng vào ngày định mệnh ấy, ba trăm sáu lăm tộc nhân Diêm lại bị trời phạt vì làm trái lệnh, tạo ra thứ quỷ thi tàn độc không nơi đâu dung chứa. Xác người Diêm tan thành tro bụi, linh hồn giam dưới âm ti, nơi ở cũng bị khai quật. Lâu dần, danh tiếng tộc Diêm bị mai một rồi biến mất, không sử sách nào ghi chép.
Quỷ thi đời đầu cũng bị sét đánh cháy thành than, chôn vùi dưới hàng ngàn lớp đất. Không biết làm sao, lại lần nữa xuất hiện trên thế gian.
May mắn thay, tộc Diêm vẫn còn lại một truyền nhân cuối cùng, được trưởng làng - người duy nhất biết đến sự tồn tại của tộc này - nuôi dưỡng mấy năm qua. Diêm Vu được trưởng làng che chở, không để ai biết đến thân phận thật sự của anh.
“Quỷ thi không thể tồn tại, bây giờ lại xuất hiện. Là ý trời hay sao?” Trưởng làng lẩm bẩm, nếp nhăn trên mặt xô vào nhau, tạo ra biểu cảm rúm ró khiếp sợ. Ông thở dài: “Là như thế nào thì chưa biết được. Nhưng Diêm Vu à, ngôi làng này không thể chứa chấp được nó.”
Diêm Vu trầm ngâm nhìn ông.
“Nhưng mà…” Anh ngập ngừng mãi mới nói: “Tôi trích máu cho nó rồi, nó được hồi sinh cũng là tại tôi.”
Ông lão biến sắc, nhưng có vẻ cũng dự đoán được trước nên không quá kinh ngạc, ông thở dài:
“Biết vậy tôi không nên kêu cậu đi.”
Diêm Vu làm nghề đào xác, tên không hay nhưng lại có ý nghĩa lớn. Mỗi khi trong làng có ai chết oan không rõ ràng, cậu thường đi lật mộ, dùng nước thánh tẩy rửa qua xác người chết rồi siêu độ cho người ta, tiện thể dùng cổ trùng xem kí ức của người đó để tìm ra nỗi oan ức mà người chết phải chịu. Anh làm như vậy không vì thù lao gì, chỉ để tích công đức bù lại cho nghiệt kiếp mà tộc Diêm gây ra.
Tối ba hôm trước khi mộ của goá phụ Loan vừa được đắp lên, Diêm Vu gieo được quẻ đại hung, cho thấy điềm cực xấu, cả hai mẹ con đều có niềm oan. Anh đến hỏi ý kiến trưởng làng, ông suy nghĩ hồi lâu rồi khuyên anh nên đi xem thử.
Bây giờ, trưởng làng nói tiếp:
“Cậu biết đấy, tộc của cậu vì luyện ra nó mà gặp hoạ diệt tộc. Ngôi làng nhỏ này yên bình bao năm qua lại bị giáng xuống mối tai ương ngầm này, không chịu được đâu, lão không thể vì giúp cậu mà làm liên luỵ bà con trong làng được.”
Anh chớp mắt, nhìn xuống đứa bé đang say ngủ trong vòng tay mình, lồng ngực bé nhỏ của nó vẫn bình lặng, không hề có hơi thở, nhưng sự sống của nó rõ mồn một.
Không thể che giấu, cũng không thể tiêu diệt.
Giọng Diêm Vu khàn khàn:
“Vậy lão sẽ đuổi tôi đi sao?”
Ánh nến trong nhà bập bùng. Gió thổi mạnh đập vào cửa gỗ, then cài lung lay.
Trưởng làng quan sát đứa bé do tự tay mình nuôi lớn, có chút không nỡ, nhưng cắn răng quay người đi, đứng xoay lưng với anh:
“Tai hoạ thường đi kèm với nhân quả. Đây là sứ mệnh của cậu, Diêm Vu, cậu phải gánh vác nó thay cho tộc nhân của mình. Quỷ thi nghe lệnh chủ nhân, cậu đã nhận nó, thì phải biết hướng nó vào việc thiện.”
Ông nghẹn ngào:
“Đi đi, đừng uổng công bao năm nay lão dạy dỗ cậu. Là phúc, là hoạ, do cậu quyết định.”
Diêm Vu vẫn đứng yên ở đó.
“Trưởng làng.” Anh gọi: “Lần này tôi đi, sẽ không thể trở về.”
Diêm Vu quỳ xuống, hướng trưởng làng dập đầu ba cái.
Trưởng làng không xoay người lại, vẫn hướng mắt vào bức tường, nhưng tấm lưng còng của ông đang run lên.
“Đi rồi thì đừng về nữa.”
Trong đêm, Diêm Vu ôm lấy đứa bé, quấn nó trong áo trùm, vượt qua cánh đồng xanh mướt, ẩn mình vào làn khói mà trở về nhà. Hôm sau đã vội vã dọn đồ đạc rời khỏi làng, không một tiếng động, không lời từ biệt, tờ mờ sáng đã không còn dấu vết, căn nhà tranh cũng biến mất tăm. Dân làng vẫn hoạt động như thường ngày, không ai nhắc một lời về Diêm Vu, cũng chẳng còn ai nhớ, trong trí nhớ của họ chưa từng xuất hiện người con trai kì lạ ấy.
Bình luận
Chưa có bình luận