Hè năm 1209. Nguyễn An đang trong năm thứ ba phục vụ tại quân ngũ.
Lịch trình huấn luyện tại quân ngũ khắc nghiệt và lặp lại đến mức nhàm chán. Mỗi ngày, khi mặt trời vẫn chưa ló dạng, những binh lính vẫn còn đang ngái ngủ trên những mảnh chiếu trên mặt đất trong một căn nhà tập thể, thì bị những tiếng chiêng chói tai đã bắt đầu vang vọng khắp doanh trại đánh thức. Tiếng chiêng là một quân lệnh đáng sợ, chỉ cần nghe thấy, họ từ trạng thái thư giãn ngay lập tức mở căng mắt tỉnh dậy và cuống cuồng khoác lên mình bộ quân phục rồi ba chân bốn cẳng chạy ra bãi sân. Mỗi ngày đều như vậy, đã ba năm trôi qua kể từ ngày An gia nhập quân ngũ. Ba năm sống trong khuôn khổ nghiêm ngặt của quân đội. Mọi thứ đã trở thành thói quen.
Điểm danh quân số là bước đầu tiên trong ngày. Các binh sĩ phải tập hợp và đứng thành mười hàng đều nhau, mỗi hàng có mười tiên lính. Thông thường có khoảng bốn nhóm lính như vầy ở mỗi doanh trại, mỗi nhóm tương ứng với số năm được huấn luyện: năm nhất, năm hai, năm ba và năm tư. Mỗi nhóm binh lính lại được quản lý trực tiếp bởi một binh trưởng. Tất cả phải có mặt đúng giờ. Nếu không có mặt khi binh trưởng điểm danh, chắc chắn sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
Khi việc điểm danh hoàn tất, cả doanh trại phải đồng thanh hô to mười lời răn. Đây là mười điều mà một binh lính đều phải tuân thủ tuyệt đối. Mười lời răn bắt buộc phải thuộc lòng và không sai sót một chữ. Vì nếu cấp trên hay bọn binh khóa trước bất chợt hỏi về nó mà trả lời không chính xác, chắc chắn sẽ phải chịu hình phạt nghiêm khắc. Trong suốt ba năm, từ khóa trên đến khóa dưới, không vắng mặt một ngày nào, khi mặt trời vẫn còn chưa ló dạng, các binh trưởng Dũng đã có mặt ở sân tập và chờ đợi bục cao, gương mặt uy nghiêm. Khi đã hoàn tất thủ tục điểm danh, ngài sẽ đặt trước ngực. Giọng ngài vang lên, rắn rỏi:
“Hỡi các binh sĩ Triều Đại Nhà Khải, trước lá cờ của vương triều, các ngươi hãy nhắc lại mười lời thề, để trung thành của các ngươi mãi mãi khắc sâu!”
Toàn bộ binh sĩ khí thế dân trào, giọng nói đồng thanh vang vọng đi khắp không gian:
"Chúng tôi, binh sĩ Triều Đại Nhà Khải, xin thề dưới đất trời, dưới lá cờ vinh quang của Khải Vương!”
"Thứ nhất. Hy sinh tất cả vì Khải Vương và Triều Đại Nhà Khải; nguyện bảo vệ hòa bình, thịnh vượng và danh dự của vương triều đến hơi thở cuối cùng! Xin thề!"
"Thứ hai. Tuyệt đối trung thành, tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên; bất kể nhiệm vụ nào cũng tận tâm, tận lực thi hành! Xin thề!"
"Thứ ba. Không ngừng rèn luyện ý chí và võ nghệ, dù gian lao khổ ải cũng không sờn lòng, dù vào sống ra chết cũng không phản bội! Xin thề!"
"Thứ tư. Ra sức nâng cao sức mạnh, luôn chuẩn bị sẵn sàng cho mọi thử thách! Xin thề!"
“Thứ năm. Nêu cao tinh thần phụng sự bá tánh, làm tròn nghĩa vụ bảo vệ nhân dân, xây dựng Triều Đại Nhà Khải ngày càng hưng thịnh! Xin thề!”
“Thứ sáu. Luôn luôn cảnh giác, giữ gìn bí mật quốc gia và quân sự, dù bị tra tấn cũng không phản bội Khải Vương! Xin thề!”
“Thứ bảy. Đoàn kết như anh em ruột thịt, tương trợ lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh, vì toàn quân một ý chí! Xin thề!”
“Thứ tám. Bảo vệ vũ khí và tài sản của triều đình, quyết không để hư hỏng hoặc rơi vào tay kẻ địch! Xin thề!”
“Thứ chín. Luôn kính trọng, giúp đỡ và bảo vệ bá tánh; không bao giờ lấy của dân, dọa nạt hay quấy nhiễu dân, để dân tin tưởng quân như anh em ruột thịt! Xin thề!”
“Cuối cùng. Giữ vững phẩm chất cao quý, không làm điều gì tổn hại đến danh dự của quân đội và quốc thể Nhà Khải! Xin thề!”
Khi lời thề cuối cùng dứt, như thường lệ, binh trường gác kiếm, giọng trầm vang: “Hỡi các binh sĩ, máu của chúng ta không thuộc về chính chúng ta, mà thuộc về Khải Vương và vương triều! Hãy nhớ kỹ!”
Tiếng hô "Rõ! Vì Khải Vương! Vì Triều Đại Nhà Khải!" vang lên từ trăm giọng nói, kết thúc thủ tục đọc mười lời răn.
Sau khi hoàn tất đọc mười lời răn, mọi người di chuyển trật tự vào khu ăn uống. Dù món ăn có thể không phong phú, nhưng nó cần thiết để cấp đủ sức lực cho binh lính bước vào chương trình luyện tập sau đó.
Sau bữa sáng, chương trình luyện tập cường độ cao bắt đầu. Các bài tập không chỉ nhằm rèn luyện thể lực mà còn để tăng cường khả năng phối hợp và tinh thần chiến đấu. Tiếng bước chân, tiếng thở gấp, và những lời hô khẩu hiệu hòa quyện vào nhau, tạo nên một khung cảnh dũng mãnh và kiên cường.
Giờ nghỉ trưa không kéo dài lâu, nhưng cũng đủ để họ nạp lại năng lượng cho những giờ làm việc phía trước. Thông thường các binh lính sẽ được cung cấp bữa ăn trưa đạm bạc và quay về nhà ngủ tập thể đánh một giấc buổi trưa.
Buổi chiều, bên cạnh việc lau vũ khí, các binh sĩ còn có giờ lao động. Họ chăm sóc động vật, trồng trọt, và làm những công việc khác tùy theo cấp trên yêu cầu.
Cuối ngày, điểm danh một lần nữa trước khi đi ngủ tại nhà ngủ tập thể. Đây là dấu chấm cuối cùng của một chuỗi hoạt động không ngừng nghỉ.
*
Vào một buổi ăn trưa vào mùa hè, như bao ngày luôn là dành cho việc ăn uống và nghỉ ngơi của các binh sĩ tại các doanh trại. Doanh trại nơi An được huấn luyện có hai nhà ăn, kích thước tương đối nhỏ. Các bàn ăn tại đây được đóng bằng những đoạn tre nhỏ vàng ươm luôn đầy ắp người ở bốn góc. Những kẻ không may mắn giành được chỗ hay không có ai giữ chỗ giúp thì phải lấy những tấm chiếu và trải dưới đất để ngồi ăn. Vì lực lượng binh lính huấn luyện rất đông, nên để lấy được đồ ăn, các binh lính phải xếp hàng, ai tới trước thì được lấy trước. Mỗi người đến lượt lấy đồ ăn sẽ được cho một chiếc cái bát lớn và một cái dĩa tròn nhỏ. Chiếc bát lớn được dùng để chất đầy ắp những hạt gạo nóng hổi trắng trẻo được nấu chín, trong khi chiếc dĩa tròn nhỏ còn lại dùng để đựng thức ăn. Thức ăn thay đổi mỗi ngày, tuy nhiên nếu như ăn tại đây đủ lâu ai cũng có thể liệt kê những nguyên liệu mà nơi đây hay nấu: rau củ luôn có, đậu phụ, cá, trứng. Có chăng là chỉ khác cách chế biến như luộc, xào hay kho. Thịt thì cực hiếm thấy. Mà nếu có, những kẻ đứng xếp hàng ở tít phía sau sẽ không bao giờ có phần vì mấy kẻ đứng ở đầu đã lấy sạch hết. Có mấy tên lính đáng thương thậm chí còn hết bốn năm phục vụ tại quân ngũ chưa bao giờ được đớp một miếng thịt nào. Bởi thế mấy tên lính hay truyền nhau câu đùa rằng: có phước lắm mới được ăn thịt ở trong đây. Nói là thịt chứ phần lớn và những đoạn xương lớn còn vơi một ít nạc. Ai cũng ngầm hiểu mà không ai nói ra: phần thịt đã được dùng để phục vụ cho các “lãnh đạo cấp cao” hết rồi, còn các phần thừa, hay mấy phần mà các ông “chê”, thì để lại cho mấy đám lính.
Không khí nhà ăn ngột ngạt và oi bức bởi ánh nắng gay gắt từ mặt trời rọi thẳng xuống thế gian, hơi nóng nghi ngú từ bếp và từ đồ ăn, mùi mồ hôi nhễ nhại của các binh lính cho đến sự ồn ào của các nhóm lính. Mùa hè mà. Do đó, nhóm ba người bạn thân gồm của An, Nhân và Tèo thường lấy đồ ăn xong đi ra ngoài, kiếm một góc mát mẻ và thoáng đãng nào đó để trải một tấm vải và ngồi thưởng thức buổi trưa thoải mái hơn.
Hôm nay là một trong số ít ngày mà ba bọn họ đã tranh được một vị trí dưới một gốc cây khá lớn trong doanh trại, cách nhà ăn khoản năm chục bước chân về hướng Nam. Nếu so với nhà bếp thì nơi đây, sự tranh giành để có được một chỗ để ngồi ăn uống và nghỉ ngơi còn ác liệt hơn gấp bội. Đặc biệt bọn binh lính càng lâu năm lại càng hay kiếm mấy tên lính mới hay năm dưới để quát tháo và cướp chỗ từ họ với lý do họ là “đàn anh”. Chỗ này là có một gốc cây to lớn không tưởng: cỡ vòng tay của hai tên binh lính. Cây cũng rất cao và tỏa ra những tán cây rất rộng, lá to cỡ hai bàn tay, mọc rậm rạp che hầu hết phủ ánh sáng oi bức từ thái dương. Quả của nó khi tới mùa cũng là một loại thức ăn ngon miệng, khi chỉ cần đập bỏ lớp vỏ dày bên ngoài, sẽ có một phần thịt nhỏ màu trắng bên trong, mùi vị ngọt ngọt. Bây giờ là mùa hè, là mùa của những loại quả này, nên có rất nhiều tên lính đang trèo lên cây để chọn những quả có vỏ màu vàng đã chín để hái, hoặc nhặt những quả đã rụng, nằm lăn lóc dưới mặt đất.
An và Nhân đang ngồi trên tấm chiếu cũ của họ đã dùng trong suốt bốn năm, họ đang chờ đợi một người bạn của họ lấy đồ ăn mang ra. Có một đám lính tay mang đồ ăn, hùng hổ bước tới ra oai:
“Ê, ra chỗ khác?” Tên năm ba to lớn to giọng, kênh mặt lên để ra lệnh.
“Hả? Mày nói gì cơ?” Nhân nhăm mặt hiện lên vẻ khinh thường, cậu dùng tay đặt lên tai mình và đưa đầu mình gần hơn về hướng tên hống hách như thể không nghe rõ tên này đang nói gì.
“Tao bảo bọn bây ra chỗ khác!” Tên đó tiếp tục lớn tiếng.
“Dựa vào đâu?” Nhân tiếp tục chất vấn.
“Bọn tao năm ba. Tao nhìn gương mặt non choẹt của thằng kia tao chắc cũng mới năm hai.” Vừa nói, hắn vừa chỉ tay thằng mặt vào An.
“Anh năm tư nhé em.” An nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ thách thức nhưng chỉ điềm nhiên đáp, lôi ra một chiếc thẻ gỗ, dùng để định danh các binh sĩ, trên đó có khắc tên và năm nhập ngũ của binh lính, giơ ra trước mắt hắn. Lên lính năm ba nhìn vào chiếc thẻ, hắn thở dốc và rối rít cúi đầu:
“Dạ em xin lỗi anh.”
An ra hiệu cho Nhân. Người bạn hiểu ý và đứng dậy, hai bọn họ cùng nhau kéo chiếc chiếu lại vào sâu một chút đẻ đủ cho mấy nhóc năm ba có đủ chỗ ngồi tránh bị nắng.
Sau khi thấy hành động tử tế của hai người, đám năm ba bắt đầu ngại ngùng, rối rít cảm ơn. An thấy thế thì cũng chỉ nhắc nhở: “Đã đọc lời thề là cư xử nhau như anh em. Mới năm ba mà ra mặt oai như vậy.”
“Dạ em xin lỗi ạ.”
“Hừ.” Nhân bực bội đáp lại.
Một tên thân hình nhỏ nhắn, đang luồng lách qua nhiều con người đang ngồi bệt dưới đất để tiếp cận được chỗ ngồi của An và Nhân. Bàn tay y nhỏ nhắn nhưng lỉnh kỉnh bát dĩa: một bát cơm, một dĩa đồ ăn và ba cái bát khác không rõ là gì khi nhìn từ dưới lên.
“Tao đem mấy chén canh ra cho bây nè.” Tèo hào hứng ngồi xuống và phân phát ba bát canh vẫn còn ấm cho hai người bạn của mình.
“Tuyệt.” Nhân hào hứng.
“Mày lấy đâu ra đấy?” An ngạc nhiên hỏi.
“À. Binh trưởng gọi tao lại đưa tao mấy chén canh thừa không có ai ăn ấy mà.” Tèo giải đáp.
“Tưởng tốt lành gì.” Nhân bĩu môi.
An thụi khủy tay mạnh vào Nhân nhằm nhắc nhở lời ăn nói của cậu.
Nhân đột nhiên nhớ lại chuyện lúc nãy bèn kể cho người vắng mặt nghe: “À tao kể mày nghe cái này. Nãy có đám nhóc con tới đòi giành chỗ mình. Còn lên giọng nữa chứ. Ha ha.”
“Láo dữ vậy. Bọn năm mấy.” Tèo ngay lập tức khom người về phía Nhân và bắt đầu nghe ngóng.
“Mấy cu đó mới năm ba. Thấy An móc thẻ ra cái sợ xanh mặt luôn. Nhìn hài lắm.”
“Trời ạ. Tính ra tới giờ vẫn có đứa không biết An là con của tướng quân Nguyễn Lâm. Bọn nó mà biết chắc quỳ lạy hai bây luôn.” Tèo vừa nói vừa cười khì, giọng điệu pha chút đắc ý, như thể chỉ riêng cậu biết được điều bí mật trọng đại này.
An chỉ sùy một cái, mặt thoáng đỏ lên, rồi ngại ngùng lánh mặt đi chỗ khác. Dường như nhắc đến cha mình luôn khiến An cảm thấy không thoải mái, phần vì ngại, phần vì chẳng muốn ai xem mình đặc biệt chỉ vì gia thế. Từ những ngày đầu tiên bước chân vào quân ngũ, An đã mang một vị thế không giống bất kỳ ai trong số những binh lính cùng trang lứa. Người ta không nhìn cậu là tân binh mà luôn là danh xưng "con trai tướng quân Nguyễn Lâm," một người có tiếng tăm lẫy lừng trong hàng ngũ quân đội.
Hồi trước, bất kể là những tên lính lão làng, hay mấy cậu lính trẻ vừa nhập ngũ, cứ gặp An là lập tức tự giác cúi đầu chào một cách nghiêm chỉnh. Điều đó không phải vì cậu làm gì xuất sắc, mà đơn giản là họ kính trọng cha cậu. Đôi khi, An cảm giác mình như một thứ biểu tượng hơn là một con người, điều mà cậu chẳng hề mong muốn.
Cũng phải nói, Tèo và Nhân quả thật may mắn vì ngay khi vừa mới vào ngũ đã được xếp đứng ngay cạnh An. Rồi dần dần cả ba thân nhau lúc nào chẳng hay. Chắc cũng vì hai đứa này đối xử với cậu như một người lính bình thường nên dần cả ba không còn khoảng cách gì. Trong khi những người khác e dè, cẩn trọng mỗi khi tiếp xúc với cậu, hai tên này lại vô tư đến mức có lúc còn trêu chọc An ngay trước mặt cả đám lính. Chính vì thế, ba người đã thành một nhóm khó tách rời trong đội, với Tèo là kẻ lắm mồm, Nhân là kiểu người tốt bụng và thẳng tính, và An là một tên điềm đạm và trầm tính mang trên vai một gia thế mà ai cũng ngưỡng mộ.
Có được một vị trí ăn thoải mái, Tèo tâm trạng vui vẻ hí hửng nói: “Ê chúng mày, nghe bảo chúng ta sẽ được lên Trường Thuật Sư để huấn luyện vài tháng đấy.”
“Thật vậy sao, tao nghe nói trên đó có nhiều mỹ nhân.” Nhân cũng hùa theo.
An thản nhiên húp bát canh của mình. Sau khi dùng khăn để lau miệng, anh cũng tham gia vào cuộc trò chuyện với một giọng điệu nghiêm túc: “Nghe nè. Tao nói trước với mấy bây, liệu mà đừng có dòm ngó hay có ý muốn làm thân với mấy con nhỏ thuật sư ở đó. Không với tới đâu.”
“Ngắm thôi mà, An căng thẳng quá đó.” Tèo cũng hùa theo các bạn.
“Mấy con nhỏ đó giờ chắc đã bị giới thượng tầng địa từ trước rồi. Bây mà lén phén thử là có ngày bọn nó đi cho bọn bây sống không bằng chết. Bọn bây nên nhớ, một đứa làm sai là cả đảm cùng chết. Bây nên đọc thuộc ‘mười điều răn’ đó đi. Tao cảnh báo trước.”
“Mày căng thẳng quá đó An.” Nhân vỗ vào lưng An.
“Phải đó, mọi người đang vui vẻ thế mà. Dù sao ở cái chỗ này bốn năm rồi, chán chết đi được.” Tèo vừa ăn bát cơm, vừa tỏ vẻ chán chường.
An nâng bát uống một ngụm nước nhỏ, rồi nói tiếp:
“Anh em tốt với nhau, và cũng là đội trưởng của bọn bây, tao cảnh cáo trước. Dính dáng với mấy bọn nó thì sẽ không có kết cục tốt đẹp gì đâu. Bây còn nhớ cái vụ bốn năm trước chứ.”
Các binh lính được xếp vào Binh Hạng Nhất, binh lính tinh nhuệ nhất được tuyển chọn trong hai năm đầu huấn luyện để sau này phục vụ Khải Vương, sẽ được triệu tập và mang đi đào tạo tại Trường Thuật Sư Âu Cơ trong khoảng hai tháng. Đây là ý chỉ của Khải Vương, với mục tiêu là các binh tinh nhuệ có kiến thức để đối phó với các thuật sư và các nguyền sư, phục vụ việc bảo vệ nhà vua tốt hơn. Chỉ thị này đã được thực thi trong bốn năm nay.
*
Chẳng qua là vào năm đầu tiên khi các binh nhất vào trường thuật sư, đã xảy ra một sự kiện đáng xấu hổ, làm muối mặt các nhóm Binh Hạng Nhất được lên đó đào tạo sau này. Chuyện là trong một đêm trăng thành gió mát, có một Tên Binh Nhất đã không làm chủ được bản thân để “vượt quá giới hạn” mà “mà không có sự đồng thuận” từ một nữ thuật sư. Dẫn đến cô gái trẻ ngay trong đêm đó đã tự mình rời bỏ thế gian mãi mãi với vết cắt hằn sâu trên cổ. Vụ việc nhanh chóng trở thành tâm điểm chú ý của toàn Nam Quốc. Trong phiên xét xử công khai, kẻ tội đồ đã phải trả giá cho hành động của mình bằng bản án “đầu lìa khỏi cổ”. Nhưng mọi chuyện không dừng lại ở đó, “nhờ” hắn mà hình ảnh những người lính vốn đã bị khinh miệt trong dân chúng, nay còn được phóng đại hơn.
Bên cạnh đó, sự căm thù và khinh miệt của các thuật sư không chỉ đối với các binh lính, mà còn cả dân thường – những người không phải là thuật sư, cũng ngày càng trở nên cực đoan hơn sau sự kiện đó. Các thuật sư từ nhỏ đã được người lớn giáo dục xem bản thân là tinh hoa nhân loại, được thần linh lựa chọn, nhìn nhận đám binh lính lẫn dân thường như những kẻ hèn mọn, không xứng đáng có chỗ đứng trong thế giới mà họ đang sống. Ánh mắt của các thuật sư luôn chứa đựng sự khinh bỉ, như thể chỉ cần chạm vào những kẻ thấp kém ấy cũng đủ làm vấy bẩn sự cao quý của bản thân.
Nhưng hai lý do trên cũng chỉ mới là bề nổi liên quan đến sự căm ghét của một bộ phận thuật sư với những người vô năng. Mọi chuyện phức tạp hơn thế nhiều.
Bình luận
Chưa có bình luận