KẾT BÙA MÁU, NHẬP ĐẠO PHÁP




Trong gian thờ nhỏ, mùi trầm thơm hăng hắc quyện với mùi máu tươi. Cái bàn tre ọp ẹp giữa nhà được phủ tấm vải đỏ đã bạc màu, trên đó là một lá bùa giấy bản trắng trống trơn, chỉ chờ nét đầu tiên. Khương ngồi xếp bằng, lưng thẳng, hai tay đặt trên đùi như lời ông Bảy đã dạy. Đôi mắt cậu ánh lên vẻ háo hức, nhưng cũng pha lẫn chút hồi hộp, bởi Khương hiểu đây không phải trò chơi. Bùa phép là con dao hai lưỡi, dùng sai một bước, nhẹ thì tẩu hỏa nhập ma, nặng thì hồn lìa khỏi xác. Ông Bảy từng nói, học đạo là đi trên con đường đầy gai nhọn, máu ai không đổ thì cũng tróc da. Dựa vào những gì ông Bảy Cốt truyền dạy, Khương biết được bùa phép được chia thành nhiều cấp bậc, mỗi cấp lại ứng với đạo hạnh của người luyện bùa. Đạo hạnh càng cao thì nét bùa càng linh, ấn chú càng mạnh. Nhưng nếu tâm chưa tịnh, vía chưa sạch mà dám vượt cấp kết bùa, ép ấn, thì trời đất không tha. Có người luyện sai, chưa kịp vẽ xong đã giãy đành đạch như bị vong vật; có người sống mà như chết, ngơ ngẩn ngây dại, hồn vía tan tác.

Thằng Khương ngước nhìn ông Bảy, hỏi về mấy lá bùa yểm mộ đêm qua ông dùng để trấn yểm ác linh. Nó hỏi luôn về chuyện ba thằng lính không đầu, mà lâu nay dân gian đồn đại. Ông Bảy Cốt nhìn nó một lúc lâu, thở khẽ như thể nhớ lại chuyện cũ rồi chậm rãi cất tiếng, giọng khàn đặc như sấm vọng từ lòng đất:

– Ba thằng đó… từng theo giặc Tây. Không biết gốc gác từ đâu, tụi nó về làng đóng đồn, cướp của, hiếp dân, giết người không gớm tay. Có đêm, nhà thờ bị phóng hỏa, có khi giữa trưa lại thấy người trôi mặt xuống kênh với vết dao phanh bụng. Dân làng rên xiết, oán khí chất ngất trời.

– Rồi tụi nó bị bắt?

 Khương hỏi, mắt không chớp.

– Ừ. Sau trận lớn, tụi nó bị quân nghĩa hội phục kích, chặt đầu tại chỗ. Cái chết không siêu thoát, xác bị dân làng lôi ra rừng vứt như heo chết. Không ai liệm, không ai đọc kinh cầu siêu. Mưa dầm tháng Bảy làm xác trương lên, thối rữa, thú rừng cũng ngán, chẳng thèm gặm.

Ông Bảy châm thêm cây nhang, khói lượn lên từng vòng mỏng như lụa rách, rồi kể tiếp:

– Tao về đây cất chòi chừng hơn chục năm trước. Lúc đầu, mỗi đêm ngủ đều mộng thấy ba bóng người không đầu lảng vảng ngoài mé lá. Ban đầu tao tưởng mộng mị, nhưng ngày này qua tháng nọ, tiếng khóc rỉ rả, tiếng chân lê lết lẫn tiếng lục lọi như ai đó đang lục đất tìm vật gì. Dân làng đâm ra hoang mang, trẻ con ngủ mê la hét, người lớn phát bệnh chẳng rõ nguyên nhân.

– Vậy thầy mới đào xác tụi nó lên à? – Khương giong khe khẽ.

– Tao với mấy người già trong làng bày lễ, dựng đàn, moi xác tụi nó lên, đốt nhang, cúng rượu, chôn lại đàng hoàng trên gò mã đó. Nhưng mấy cái đầu thì không thấy. Tao tìm khắp rừng, khắp kênh, đào bới đến sưng tay cũng không ra. Thiếu đầu, tụi nó hóa thành oán linh, đêm nào cũng trồi lên, đi tìm đầu.

Khương rùng mình. Nó tưởng tượng cảnh ba cái xác không đầu mò mẫm dưới trăng, móng tay cào rột rột trên đất, tiếng rên rỉ từ cổ họng đứt lìa vọng về như tiếng nước sôi trong nồi vạc.

– Tao sợ tụi nó hại người làm chuyện ác, nên tao lập ấn, vẽ bùa, trấn mộ phần. Mỗi năm phải thay bùa một lần, nhưng lần này rất khác, “ Bùa Trấn Mộ” lại bị phá vỡ quá sớm...

Ông Bảy ngừng lại, mắt nhìn xa xăm qua làn khói nhang. Ngoài kia, gió lùa qua mái lá phát ra tiếng rít dài như tiếng rắn bò trên phên vách.

– Cũng từ sau chuyện đó…

Ông nói nhỏ

– người làng bắt đầu gọi tao là Thầy Bảy Cốt.

Khương cúi đầu, không dám hỏi thêm. Nhưng trong tim nó, ngọn lửa tò mò đã bùng lên dữ dội. Nó biết, con đường học đạo mình chọn… chẳng dễ chút nào.

Rồi ông Bảy Cốt lại rít một hơi khói dài, mắt lim dim, giọng trầm xuống như nước chảy đáy ao. Ông chậm rãi nói tiếp, từng chữ như khắc lên màn đêm đặc quánh ngoài kia:

– Hôm tao trấn yểm, tao dùng tới hai lá bùa. Một là "Bùa Trấn Mộ", hai là "Bùa Khóa Mộ" thứ hiểm hơn, nặng hơn, chỉ dành cho những trường hợp vong linh quá mạnh, không siêu thoát được, hóa thành ác linh hung tợn. Mỗi lá bùa đều phải luyện bằng máu, bằng vía, bằng đạo tâm, chớ không phải cứ muốn vẽ là vẽ.

Ông ngừng lại, nhấc tách trà đã nguội ngắt, nhấp một ngụm rồi kể tiếp. Khương ngồi nín thở, dỏng tai nghe từng tiếng một, như thể sợ bỏ sót bất kỳ chi tiết nào trước khi kết bùa.

– “Bùa Trấn Mộ” là loại phổ thông hơn, thường dùng để ém nhẹ vong linh, không để tụi nó trồi lên quấy nhiễu. Lá bùa này vẽ trên giấy bản vàng, loại giấy phải đem hơ qua lửa long não cho sạch khí trần, rồi mới đặt lên mâm đồng mà điểm ấn. Cây bút không phải thứ gì cũng dùng được. phải là lông đuôi chuột trắng, loại chuột sống trong miễu hoang, chỉ hiện ra lúc giao canh. Còn mực vẽ ấn thì là máu gà trống, phải là gà cựa bén, lông mượt, gáy ba hồi không ngắt, chọn vào lúc giờ Dậu – mới linh. Lá bùa ấy không quá mạnh, chỉ có tác dụng trấn tạm thời. Coi như là ém hơi âm, không cho oán khí bốc lên. Nhưng một khi gió chướng nổi, âm khí tụ, thì oán linh cũng dễ phá bùa, đội mả mà về.

Khương gật đầu, nuốt nước miếng cái ực. Ông Bảy lại nói, lần này giọng thấp xuống, đầy vẻ dè chừng:

– Còn "Bùa Khóa Mộ"… thì khác. Đây là ấn chú cấp cao, mạnh tới mức có thể khóa chặt hoàn toàn một mộ phần. Không để vong linh nào thoát ra, không cho ác khí xâm lấn người sống. Nhưng muốn tạo ra nó không đơn giản. Phải dùng vải vàng được dệt đúng bảy canh ba, phơi sương đúng ba đêm rằm. Vẽ ấn lên vải phải dùng hỗn hợp đặc biệt: máu gà trống lông đỏ mà không phải con nào cũng được, phải là gà “đổi mạng”. Tức là trước khi lấy máu, phải cắt một sợi tóc thầy pháp bỏ vào chén rượu, cho gà uống, coi như kết sinh khí giữa thầy và gà. Trong lúc ác khí phản vệ, thì mạng thầy đổi cho con gà chết là cái chắc. Mực vẽ cũng không thường: phải trộn máu gà với than đốt từ thân cây xộp, cây này rễ xoắn như ruột người, chỉ mọc ở nơi có âm khí tụ. phải đốt đúng lửa, không được non, không được già, lấy phần than đen pha với máu, quậy cho đến khi đặc lại như nhựa quỷ, rồi mới chấm mà vẽ.

Khương nghe tới đây, tim đập rộn. Nhưng ông Bảy vẫn chưa dừng lại:

– Có bùa rồi, vẫn chưa đủ. Phải lập ấn pháp, biết niệm chú. Lúc niệm, không được ngừng, không được quên.

– Mấy thứ đó… : Khương run giọng hỏi.

– từ đâu mà có, thầy?

– Mấy lá bùa này… tao không nghĩ ra đâu. Nó được kết tạo từ thời khai hoang, mở cõi. Hồi ấy rừng hoang nước độc, người chết như rạ, âm khí chưa tan. Oán linh, ác linh nổi lên thành hình, có con hoá quỷ. Mấy ông tổ đạo pháp phải tìm cách trấn giữ, cầm cự với bọn nó. Những ấn chú này là từ thời đó truyền lại, được cất giữ trong sách cổ, chỉ người có đạo hạnh mới dám luyện, luyện rồi không dám nói.

Ông Bảy cười nhạt, nụ cười méo mó như kéo từ mả đất. Ngoài kia, gió lạnh thổi ào ào, tiếng lá chuối khô va vào nhau lách cách như ai vỗ tay cười dưới mồ.

– Hồi tao trấn mộ ba thằng lính, tao phải dùng cả hai loại bùa này cùng lúc. Một để ém, một để khóa. Nếu không, mày không còn ngồi đây đâu.

Khương nghe mà sống lưng lạnh ngắt.

Đêm xuống nhanh như tắt đèn. Trời vẫn đọng hơi sương, gió lạnh quấn vòng quanh mái lá nhà ông Bảy Cốt. Từ rặng tre, buội chuối sau hè, tiếng chim bìm bịp kêu từng tràng rợn gáy, lẫn vào tiếng kẽo kẹt của mái tranh rung rinh trong gió. Trăng đầu tháng lặng lẽ treo giữa trời, ánh sáng xanh nhợt chiếu xuống khoảng sân đất đỏ lốm đốm tro nhang chưa tan.

Ba Khương quỳ trước bàn, mùi trầm hương sọc vào mũi. Mắt nó mở to, nhìn trân trối vào tờ giấy trắng như nhìn vào mắt một con quỷ chưa hiện hình. Tay cầm con dao nhỏ, lưỡi dao cúng có khắc chữ cổ đã mờ, chỉ dùng một lần cho người nhập đạo. Con dao ấy từng cắt máu bao nhiêu người, từng mở đường cho bao vong linh không ai rõ, chỉ biết lưỡi dao luôn lạnh như băng, nặng như đeo một lời thề máu. Ông Bảy đứng sau lưng, giọng đều đều như câu kinh cũ vọng lại từ cõi âm:

– Mỗi người một dấu máu. Mỗi lá bùa một hơi thở. Nếu tâm mày loạn, bùa viết ra sẽ quật ngược lại mày. Hiểu không?

Khương gật đầu. Tim đập mạnh như trống đánh lễ nhập xác. Má nó rịn mồ hôi, cổ họng khô ran. Gió luồn qua vách lá, thổi ngọn đèn dầu lập lòe như sắp tắt.

Ông Bảy đưa tay trái ra, vạch nhẹ ngón trỏ của Khương bằng lưỡi dao. Máu rịn ra, đỏ tươi, chảy xuống đầu bút lông làm từ cọng cỏ gà phơi sương bảy đêm. Loại bút này không mua được, chỉ được kết khi trăng mọc giữa giờ Dần.

– Vẽ đi. Bùa “Ngự Tâm” - giữ hồn khỏi bị xô lệch, khỏi bị gọi tên lúc hồn phách yếu.

Khương hít sâu, chấm máu vào bút, tay run run đưa nét đầu tiên. Khi máu chạm vào giấy, lá bùa như rung nhẹ, một thứ rùng mình lạnh sống lưng chạy dọc cột sống cậu. Khói trầm bỗng xoắn lại thành hình xoáy tròn trên không. Dòng máu đỏ vẽ thành nét xoắn uốn khúc, ký hiệu cổ quái như đang tự động biến đổi, xoay chuyển trên giấy. Tay Khương bất giác đi theo một nhịp độ lạ lùng như có ai đó nắm tay dẫn dắt, như thể cậu đã từng viết lá bùa này trong một kiếp nào đó đã quá xa xăm. Gương mặt Khương trắng bệch, mắt dại đi nhưng tay vẫn đều đều viết, như bị nhập, trên ngực nó bắt đầu xuất hiện ấn chú kỳ lạ đen ngồm. Nhưng đến nét cuối cùng bàn tay cậu khựng lại. Trong đầu cậu bỗng nghe tiếng khóc. Tiếng khóc trẻ em. Thút thít, nức nở. Gần. Rất gần. Như vọng ra từ dưới gầm bàn, hay từ sau tấm rèm đỏ đong đưa. Khương ngẩng đầu. Một đứa bé gái đang đứng ngay trước bàn thờ. Mặt tím tái, áo vá vai, đôi mắt trũng sâu, đen như bùn lầy. Nó không cử động, chỉ nhìn chằm chằm vào Khương, đôi mắt trống rỗng như đáy giếng cạn.

– Cô… cô là ai…

Khương lắp bắp, giọng nghẹn lại. Đứa bé không trả lời. Chỉ từ từ đưa tay lên… chỉ vào lá bùa dở dang. Đầu ngón tay nó đen sì, móng tay bể đôi, cáu đất như vừa bò từ dưới mồ lên. Rồi nó cất tiếng. Lạnh như nước sông đêm, nhẹ như tơ chuối khô bị gió thổi:

– Viết sai rồi… Hồn sẽ lạc… giống tui…

Câu nói vừa dứt, đèn dầu phụt tắt. Không gian tối đen như hũ nút. Chỉ còn ánh trăng xanh nhợt xuyên qua khe cửa sổ, rọi vào mặt đứa bé. Nhưng rồi, ngay cả trăng cũng mờ dần như bị phủ bởi sương âm. Gian nhà trở nên đặc quánh, mùi máu tanh bỗng nồng lên, như ai vừa cắt cổ con vật lớn. Ông Bảy quát lớn từ sau lưng:

– Khương! Đừng nghe nó! Viết lại từ đầu! Dồn tâm vô! Nó thử mày!

Khương siết tay. Cắn răng. Nhúng máu lần nữa. Máu hoà với mồ hôi, chảy dọc xuống cánh tay. Tay run bắn nhưng vẫn cố vẽ lại từng nét. Mỗi nét như rạch vào da thịt chính mình, đau rát mà không dám ngừng. Ngoài cửa sổ, bóng đứa bé mờ dần rồi tan thành khói, bay về hướng miễu cổ. Khi vẽ xong nét cuối cùng, lá bùa bốc nhẹ một làn khói trắng. khói máu tan thành hình một chữ cổ, rồi biến mất vào hư không. Căn phòng trở lại yên tĩnh, trầm hương lại thơm như cũ. Ông Bảy gật đầu. Mắt sáng lên một tia hiếm hoi, ánh nhìn của người đã thấy một kẻ vượt cửa âm trở về:

– Khá lắm. Không để tâm tán loạn. Bùa sống rồi.

Khương ngồi phịch xuống, mồ hôi đầm đìa, ngực phập phồng như mới bơi qua sông lớn. Tai vẫn còn ong ong tiếng khóc, mà mắt thì ráo hoảnh. Ông Bảy đưa tay xoa lên đầu cậu, bàn tay thô ráp, dính khói nhang và tro trấu nhưng ấm lạ thường:

– Mày đã khai đạo. Từ giờ, mỗi đêm trăng, mày phải luyện một bùa máu mới. Để vong không dụ được mày. Để mày không lạc trong tiếng gọi cõi dưới. Khương chỉ kịp gật đầu. Không khí trong gian thờ vẫn còn nặng trĩu, như hơi người chết chưa tan hết. Đêm ấy, khi đã nằm trong mùng, mắt nhắm mà tim vẫn chưa yên, Khương chợt nghe tiếng thầm thì bên tai, như tiếng quỷ cười khe khé từ mồ sâu. Cậu mở mắt. Không thấy ai. Nhưng ngoài cửa sổ, một chiếc bóng nhỏ… đang đi xa dần về hướng miễu cổ. 

Sáng hôm sau. Cậu theo ông Bảy đi qua mấy lối mòn phủ đầy rong rêu. Trời còn sớm, sương giăng đặc như khói rạ, hai người đi mà không thấy bóng. Con miễu cổ nằm giữa rặng tre già, tường vôi long lở, mái ngói rêu phong. Trước miễu là một cái ao nhỏ, không ai dám tắm, dân làng bảo rằng nước dưới ấy không hôi không tanh, nhưng nếu lấy gà thả vô thì chìm mất hút. Cậu ngờ ngợ nhận ra đây là căn miễu trong đêm rằm trước đó, cảm giác ớn lạnh còn gờn gợn trong người. 

- Đây là đất có người chấn giữ, nay tao sẽ cho mày gặp một người ở đây.

Ông bảy bắt đầu bày pháp cụ trên đất. Giọng khàn khàn nói.

 – Đây là linh hồn mà mầy đã gặp trong đêm rằm hôm đó – Bà thủ miễu - hãy còn gọi là Bà chúa xứ. Hồn linh trăm năm không dễ gì chịu ra mặt, trừ khi miễu bị xâm phạm. Nhưng hôm nay tao ra mắt mầy để bà được biết cho phép mầy hành đạo ở vùng này... .

Ông Bảy đặt ba nắm đất lên bàn thờ Bà, châm ba cây nhang, rồi vạch một vòng phấn trắng quanh gian chính. Ông thắp đèn mỡ, lấy ra một ống sáo bằng xương trâu non, đặt vào tay Khương.

– Khi tao niệm đến câu “hồi linh vạn vọng”, mày thổi một hơi. Nhớ, không được ngừng dù có thấy gì đi nữa.

Khương gật. Tay run. Ông Bảy bắt đầu tụng. Tiếng chú vang như vọng về từ quá khứ. Lời lẽ nửa Nôm nửa Hán, lúc trầm lúc gắt như tiếng người cãi lộn giữa ba cõi. Đến câu: “Linh quang thượng cổ, Miễu trấn chân hồn, Hồi linh vạn vọng...” Khương đưa ống sáo lên miệng, thổi một làn âm u trầm đục, tiếng như rít gió qua rừng hoang. Sương từ dưới đất bốc lên, căn miễu chật chội chợt rộng ra như vô tận.

Và… giữa gian chính, hiện ra một đứa con nít nhỏ, là một bé gái mặc áo ngũ sắc, tóc dài gần chấm đất, đôi mắt phủ màn trắng đục. Không bước, mà lướt. Không thở, mà khói từ miệng cứ nhả ra. Đứa bé gái ấy là Bà thủ miễu, Bà đứng nhìn ông Bảy, rồi quay sang Khương.

– Ai dám gọi ta từ dưới sâu?

Giọng Bà vang vọng như từ đáy mồ vọng về. Gió trong miễu thổi ngược, tàn nhang cháy rực từng đốm đỏ. Ông Bảy cúi đầu, chắp tay:

– Con là hậu nhân giữ đạo tại đất này, nay trước là ra mắt đệ tử, xin bà cho nó được hành đạo trong làng, sau là hỏi chuyện quỷ dị xảy ra gần đây. 

Bà Thủ im lặng một lúc lâu. Gió lặng như tờ.

– Ta biết tên này, là kẻ vừa khai căn không lâu, trước đây ngươi bị chút nữa là vong linh dẫn độ trong đêm rằm, lúc đó ta đã cứu người một mạng. 

Bảy cốt nghe vậy, liền dục Khương cúi lại cảm ơn bà thủ miễu. Khương vừa sợ hãi, vừa như mất hồn làm theo lời ông bảy.

- Vậy bà Thủ xin cho con biết những chuyện quỷ dị gần đây. 

Bà Thủ thở dài, hơi thở dài và lạnh như sương rừng đêm chướng:

– Miễu này… đã bỏ hoang lâu lắm rồi. Mái ngói lở, cột mục, bàn thờ mối ăn, khói hương tàn nhạt. Người ta không còn cúng tế, không còn gọi tên ta. Linh lực của ta đã suy, không còn đủ để soi rõ những chuyện ma quỷ đang lén lút xảy ra trong vùng. Nhưng…

Giọng bà trầm xuống, mang theo tiếng gió xào xạc như ai đi quanh mái:

– Nhưng ta vẫn cảm nhận được… âm linh đang ùn ùn kéo về. Như cỏ dại mọc kín ruộng sau mùa nước nổi. Những linh hồn không tên, không mặt, không nơi về… đang tụ hội quanh đây, phong ấn trước đây đã suy yếu đến cực hạn. Xứ này sắp thành nơi giao nhau giữa hai cõi rồi, nếu không sớm lập kết giới, tạo phong ấn mới thì muộn mất.

Nghe bà Thủ Miễu nói vậy, ông Bảy rùng mình, sắc mặt tái đi, tay run nhẹ. Ông khẩn khoản quỳ sụp xuống, trán chạm đất, giọng gấp gáp:

 – Vậy con xin khẩn cầu bà! Con muốn lập một kết giới âm dương để trấn giữ vùng đất này, ngăn tà khí lan tràn. Xin cho con được lấy miễu bà làm nơi khai trận làm nơi đặt tâm pháp của kết giới!

Gió trong miễu bỗng thổi mạnh, làm ngọn đèn dầu rung bần bật. Bà thủ miễu nghiêm nghị, lạnh lẽo như pho tượng cổ giữa miễu hoang đã phủ rêu.

– Muốn lập kết giới… không phải chuyện đơn giản. Miễu nhìn cũ nát quan tàn, nhưng từng được lập trên mảnh đất trấn long huyệt. Do một vị tổ nghề pháp đạo khái huyết trấn tà trong vùng. Muốn lấy miễu ta làm tâm giới, ngươi phải có vật lập trận. Không có đủ vật, thì kết giới không thể lập.

Ông Bảy cúi đầu thấp hơn:

– Xin bà thủ miễu cứ chỉ dạy. Con nguyện làm theo, dù là phải vào rừng sâu hay trèo xuống mả hoang.

Bà thủ đưa tay lên, chỉ vào cột thờ cháy sém sau lưng ông, giọng vang lên như tiếng gió lùa qua cổ mộ:

– Muốn dựng kết giới, phải có ba vật: vảy Cù Đinh, cỏ Vong Hồn, và vật tổ trấn khí.

Khương, đứng sau ông Bảy, nghe tới đây thì chau mày, còn ông Bảy thì khẽ gật như đã đoán trước.

– Vảy Cù Đinh chỉ xuất hiện với kẻ hữu duyên – là con của dòng máu từng phong ấn quỷ vật. Không ai tìm nó được, nó sẽ tự tìm người được chọn. Cỏ Vong Hồn… thứ ấy chỉ mọc đúng lúc Cửa Âm khai mở, gió đổi hướng, trời đổ ngược sương. Khi ấy, cỏ này phát ra ánh lân tinh như đốm ma trơi, mọc ở nơi cửa âm khai mở. Còn vật tổ trấn khí…

 Bà thủ ngừng lại, giọng nhỏ như tiếng lá rơi:

– thứ đó hiện đang nằm trên người ngươi đấy… Bảy Cốt.

Ông Bảy giật mình, tay lần vào trong áo, nơi treo chiếc túi vải nhỏ đựng vật tổ sư để lại – vật bất ly thân, chưa từng hé lộ cho ai. Ông lặng người, không nói nên lời.

Bà thủ khẽ cúi đầu, thân ảnh bắt đầu nhòa đi, làn khói trắng tan ra như hơi sương gặp nắng sớm. Giọng nói cuối cùng của bà vang vọng giữa miễu hoang:

– Ba vật đó lấy được, thì kết giới sống. Không thì… xứ này sẽ chìm vào bóng tối vĩnh viễn… Nói rồi bà thủ tan biến hoàn toàn, để lại khoảng không lạnh ngắt, tiếng ếch kêu u uẩn vọng về từ phía ruộng sau. Khương vẫn ngơ ngác nhìn lên bàn thờ, chưa hiểu hết những điều vừa xảy ra. Ông Bảy thì từ tốn cúi lạy ba lạy thật sâu, trán chạm đất, như thay mặt dân làng tạ lễ, vừa là để xin phép, vừa là để nhận trọng trách gánh vác những gì sắp tới.

Ngoài miễu, gió đêm thổi ù ù, lá cây rơi loạt xoạt, như có bước chân ai đó đang bước quanh… canh giữ miễu thiêng đã sống dậy sau giấc ngủ dài.

Đêm hôm đó, trong gian nhà lá, Khương lại ngồi viết bùa. Bên ngoài, gió đập ràn rạt, lá cây bay lả tả như ai đó chạy vòng quanh nhà. Lá bùa “Giữ Huyết” vẽ xong, chưa kịp khô, bỗng có tiếng gõ cửa.

Cốc. Cốc. Cốc.

Khương khựng tay.

Cốc. Cốc… Cốc…

Tiếng gõ chậm lại, đều đều, đúng ba lần. Ông Bảy chưa về. Ngoài nhà trống không. Cậu bước ra, tay cầm lá bùa còn đỏ máu.

Mở cửa ra… Không ai.

Chỉ thấy một dấu tay trẻ con in trên cửa.

Máu đỏ tươi.


0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout