Quãng thời gian bình yên tạm bợ sụp đổ sau tròn một tuần lễ.
Nơi một góc rừng trơ trụi lá, gã đồ tể nằm trên tuyết, mặt ngửa lên, đôi mắt trợn trừng kinh ngạc. Gió vốc lên từng nắm tuyết, phủ xuống cái thân thể cứng đờ tựa tấm vải liệm trắng mỏng manh. Xác gã đã có thể bị chôn vùi, bị rừng hoang giữ lại làm một bất ngờ cho những kẻ dạo chơi đầu xuân nếu không vì cái mũi tinh tường của con chó săn. Con vật nọ thoáng ngửi thấy mùi máu lập tức chạy đến, kéo theo sau người chủ với gương mặt trắng bệch, bàng hoàng.
Lời tri hô của anh ta nhanh chóng đánh động cả làng. Người đang nghỉ trưa bật dậy, kẻ vứt cả bát cơm mà lao ra. Tiếng kêu than, tiếng lầm bầm chửi bới, tiếng gào thét qua lại và cả những lời cầu nguyện rì rầm như lấp đầy cả không gian. Đám đông kinh ngạc, khiếp đảm và giận dữ. Những tưởng đã tai qua nạn khỏi, ngờ đâu nỗi kinh hoàng ấy một lần nữa lại mò đến.
Giữa đám đông hoảng loạn, những kẻ biết đến chân tướng sự việc chỉ im lặng. Họ cùng đeo lên vẻ mặt trầm tư, nhưng tâm tư mỗi kẻ lúc này lại hoàn toàn khác.
Hederick quỳ một bên gối, nghiêng đầu thi thể sang bên, xem xét vết thương. Máu đen bết trên tóc người chết, nửa sau đầu hở hoác thấy cả sọ trắng bên trong, lẫn vào một thứ nhoe nhoét màu xám pha đỏ. Là não, Alfred chợt nhận ra, dù chưa từng nhìn thấy nó trước đây. Cậu khẽ chạm lên đầu mình, tự hỏi liệu bên trong cũng có là một mớ bầy nhầy kinh tởm như thế.
Cạnh bên người Thợ Săn, Edward khom người, quan sát phần bụng nạn nhân. Lớp da thịt nơi ấy bị mở bung bởi một vết cắt sắc ngọt, như cố tình phơi bày phần nội tạng bị xào bới. Một đoạn ruột nằm lủng lẳng vắt sang bên, trông còn khá nguyên vẹn.
Dáng lưng cha dượng vẫn thẳng tắp như thường lệ, đôi mắt nheo lại nhìn xuống cái xác thê thảm. Ánh mắt ông lia qua khúc chân trái đã mất, lặc lìa đoạn xương trắng, rồi chuyển sang vệt máu xung quanh. Quá ít, quá ‘sạch sẽ’, mảng tuyết dưới thân gã chỉ miễn cưỡng thấm chút máu đen.
Bà đầu bếp đứng cạnh chị mình, ôm lấy cánh tay chị vỗ về. Nhưng bà đã lo lắng dư thừa, Martha Ridel chẳng hề suy suyển vì cái chết của ông chồng.
Không khiếp đảm, cũng chẳng buồn khổ, bà chỉ bực bội khi nghĩ đến món nợ rượu chè của gã giờ đổ cả lên đầu mình, nhẩm tính xem liệu có tay chủ nợ nào thương tình mà sẵn lòng xoá đi cái khoản ấy không. Người con trai khóc thương cha thay cả phần mẹ, vùi đầu giữa hai tay mà khóc nấc. Martha liếc nhìn anh ta, thờ hầy một tiếng ra vẻ chán chường, đoạn sẵn giọng hỏi ngài trưởng làng. “Các vị xong chưa? Khi nào tôi mới mang lão đi chôn được đây?”
Quay mặt về phía đám đông, bà quát. “Có gì hay ho đâu mà mấy người tụ tập mãi thế? Xem xác chết cũng đến nhàm rồi mà!”
Những lời hung hăng của bà góa khiến tất cả chợt im bặt, trợn tròn mắt.
Cả làng Belltree đều biết chuyện nhà họ không được yên ổn. Gã Ridel thô kệch, nóng nảy, quanh năm bê bết mùi máu thịt tanh hôi, lại còn nát rượu. Điểm tốt duy nhất của gã có chăng gói gọn trong chiếc hầu bao rủng rỉnh, vậy mà gã thà dâng trọn nó cho bia rượu còn hơn nhè ra xu nào cho vợ con.
Bỗng dưng, nhắc đến hai chữ bia rượu, Alfred lờ mờ nhớ ra điều gì.
“Vậy,” cha dượng ngước nhìn đám đông, “Ai sẽ đưa Ridel về nhà nguyện đây?”
“Phiền quá! Chả cần!” Người đàn bà goá bực dọc phản đối. “Đang giữa rừng rồi đây này, cứ kiếm chỗ nào mà chôn thôi. Rồi để tôi về xem nhà có hạt cây gì trồng lên là xong!”
“Bà Martha,” ông Edmond thở dài. “Tôi biết ông ấy chẳng phải một người chồng tốt, nhưng dẫu sao người cũng đã mất rồi. Chỉ riêng việc này, không thể qua loa được đâu. Xem như một ân huệ cuối cho tình nghĩa vợ chồng bao năm qua.”
Theo thông tục vùng Silva, khi một ai đó qua đời, họ sẽ được chôn cất giữa rừng, trên mộ trồng một cây con. Đợi khi cây đã trưởng thành, thân đủ cứng cáp, tên của họ sẽ được khắc lên cây. Nghi thức ấy không nhằm mục đích tưởng niệm người quá cố, mà là trao tặng cái tên.
Những người con của nữ thần Đất Terra trở về lòng Mẹ khi đã nằm xuống, mang xác phàm nuôi dưỡng Đất Mẹ phì nhiêu, trở thành vườn ươm cho những sự sống mới xanh tươi.
Người ta kháo nhau rằng những cái cây ấy, còn gọi là ‘Trấn mộ mộc’, nhờ nhận lấy cái tên của người đã khuất mà sở hữu linh hồn, thành mộc tinh bảo hộ rừng xanh.
Gia đình các nạn nhân đều đã chọn ra hạt giống cây, nhưng chẳng ai vội vàng như bà Martha. Khi xuân về, chúng rồi sẽ được gieo lên những ngôi mộ mới đắp giữa rừng Belltree, bởi họ lo sợ chồi non mong manh không thể đương đầu mùa đông khắc nghiệt. Trấn mộ mộc úa tàn quá sớm là một điềm xui rủi, báo hiệu rằng linh hồn người chết không được thanh thản.
Phải rồi, cậu quên mất, riêng ông Bryson vẫn chưa. Ông từ chối nghĩ về điều đó, như thể chừng nào còn chưa hoàn thành nghi thức tiễn đưa, thì con gái hãy còn chưa hoàn toàn rời bỏ ông.
Jane sẽ thích một cây bạch dương, Alfred chợt nghĩ. ‘Cô gái dưới gốc bạch dương’ là câu chuyện cổ tích yêu thích của chị. Alfred vẫn nhớ, văng vẳng bên tai như chỉ mới hôm trước, âm điệu du dương của chị khi kể cho Lily câu chuyện nọ.
Thiếu nữ nọ bị mụ hoàng hậu ghen ghét vì nhan sắc tuyệt trần của nàng. Bà ta tàn nhẫn ra lệnh cho tay sai cướp đi trái tim thiện lương của nàng, đập vỡ thành trăm mảnh mà cất giấu khắp vương quốc. Mất đi trái tim, nàng rơi vào giấc ngủ say. Những người bạn muôn thú yêu quý nàng thiếu nữ vô vàn, không nỡ bỏ mặc bèn mang nàng giấu đi nơi cánh rừng màu nhiệm, vùng đất vốn dĩ không con người nào có thể đặt chân đến, và đặt nàng say ngủ dưới tán bạch dương. Họ quyết tâm giải cứu nàng, thu thập những mảnh tim. Họ kéo nhau đến lâu đài, trừng trị hoàng hậu và bè lũ tay sai. Thiếu nữ thế là tỉnh giấc. Nàng cùng bè bạn sống hạnh phúc bên nhau, mãi mãi cùng ca múa quanh gốc cây thần.
Một câu chuyện kỳ lạ, và có phần rờn rợn, nhưng cả Lily cũng thích nó.
“Việc chôn cất cứ để tôi.” Hederick đứng dậy, bất ngờ lên tiếng. “Nếu bà đã nói không cần thì cứ khâm liệm ngay tại đây cũng được. Nhưng tôi xin phép kiểm tra kĩ càng thêm một chút được chứ? Bà chớ lo, xong việc tôi sẽ an táng ông nhà đường hoàng ngay.”
“Cứ tự nhiên.” Martha khịt mũi. “Thích làm gì thì làm. Thoải mái lựa chỗ mà chôn lão đi.”
"Tôi rất cảm kích. Nhân tiện, bà có phiền không nếu tôi hỏi vài câu?”
"Phiền.” Bà theo thói quen cộc lốc nói toẹt ra, rồi chợt thấy mình lỗ mãng hơi quá mà thêm vào. “Nhưng cứ hỏi đi.”
Quả không hổ là chị gái bà Katherine, cậu trộm nghĩ. Nhưng hoàn cảnh này hợp để bật cười, vậy nên Alfred mím chặt môi, cố giữ vẻ mặt trang nghiêm.
“Trước hết,” người Thợ Săn đánh mắt sang cha dượng, hạ giọng chỉ đủ họ nghe thấy, “Có thể cho mọi người giải tán được chứ?”
Ông Edmond gật đầu. Ông nhìn sang bà đầu bếp, hỏi. “Katherine, vậy còn bà thì sao?”
Dù cả ánh mắt lẫn ngôn từ đều hướng về bà đầu bếp, câu hỏi ấy thực chất lại dành cho Hederick. Khi câu hỏi được buông ra, trong tích tắc, đôi mắt ông liếc nhanh thăm dò phản ứng của anh. Nét mặt người Thợ Săn không đổi, ngụ ý thay cho câu trả lời.
Dường như nhận ra thoáng trao đổi thầm lặng ấy, bà Kat buông tay chị gái, lừng khừng lùi về sau. Nhanh như cắt, Martha chộp lấy cánh tay cô em gái, bất chấp sự kháng cự của bà mà kéo Katherine sát lại gần bên. Đôi mắt Martha trừng lên kiên quyết.
“Muốn tra hỏi gì tôi thì con bé cũng phải có mặt. Người nhà cả thôi, việc gì phải giấu giấu diếm diếm?” Bà hằn học.
Edward bấy giờ mới ngước lên, đôi mày anh chau lại căng thẳng, như thể lo sợ rằng cha sẽ nổi giận với bà ta. May thay, mối lo của anh là không cần thiết, Edmond không bận tâm đến những lời lẽ gai góc ấy. Ông chỉ nhẹ nhàng khoát tay ra hiệu cho bà Kat được ở lại, và cái gật đầu của Hederick củng cố thêm cho chấp thuận ấy.
“Mọi người,” âm giọng đĩnh đạc của ông vang vọng qua những tàn cây, đưa mệnh lệnh của trưởng làng đến cái đám đông rải rác quanh mảng rừng, “Như thế là đủ rồi. Tất cả trở về đi.”
Chỉ chờ có thế, dân làng liền rục rịch tản đi. Không như những nạn nhân trước đây, cái chết của tay đồ tể không nhận được nhiều sự thương cảm. Giả như lão Crook có mặt lúc này, lão sẽ bày ra một màn gào khóc thảm thương, Alfred thầm nghĩ. Từ lúc chạm mặt ở chuồng ngựa, cả ngày nay cậu không thấy bóng dáng gã. Gã đang ngủ li bì một xó nào đó bù cho chầu rượu thâu đêm chăng?
Cậu con trai nhà Ridel đưa đôi mắt đỏ hoe đầy tha thiết nhìn mẹ. Anh ta cũng muốn ở lại, như dì mình, nhưng Martha ngoan cố phớt lờ đi đứa con. Thất thểu, anh ta đành rời đi.
Alfred len vào dòng người, định bụng khi trở về sẽ hỏi Lily về câu chuyện cổ tích nọ. Lạ lùng thay, chỉ là một mẩu chuyện trẻ con, vậy mà bỗng dưng nó làm cậu bất an. Dường như có một chi tiết quan trọng trong câu chuyện mà cậu đã quên mất - cái chi tiết khiến Alfred phải nhăn mặt mỗi khi nghe Jane kể chuyện.
Thế nhưng, còn chưa đi được bao xa, người Thợ Săn đã đưa tay chỉ thẳng vào cậu, không chút kiêng dè gọi lớn. “Khoan đã. Cậu đấy, Easton, ở lại chút đi!”
Cái tên này, Alfred nghiến răng, ruột gan lộn một vòng. Chớ để cái vẻ mặt vô tư vô tội ấy đánh lừa, anh ta biết rõ mình vừa gây ra họa gì.
Ngay tức khắc, mọi ánh nhìn đổ dồn về kẻ vừa lên tiếng, rồi theo hướng anh ta chỉ tay mà chuyển sang đặt trên người cậu. Tò mò có, nghi ngại có, xét nét cũng có. Những bước chân chững lại, xì xào bàn tán. Đôi mắt cha dượng đanh lại, cái nhìn sắc lạnh như yêu cầu một lời giải thích.
Chỉ riêng Edward vẫn đăm đăm nhìn thẳng người Thợ Săn, góc mặt bị che khuất không rõ đang để lộ cảm xúc gì.
Kyle Hederick, Alfred rủa thầm, bàn tay bất giác siết chặt, cầu cho sét đánh trụi đầu anh đi.
~
“Trước hết," Hederick hắng giọng, trịnh trọng tuyên bố, “Đây không phải tác phẩm của con vật chúng ta đang tìm.”
Con vật, anh gọi nó như thế. Người Thợ săn kín đáo nhìn sang hai người phụ nữ, thận trọng không nhắc đến chữ “quỷ” trước mặt họ. Là do cha dượng yêu cầu giữ sự thật về con quỷ bí mật trước dân làng, hay là quyết định của chính bản thân anh ta, Alfred tự hỏi.
“Ông…" Một nhịp im lặng chờ đợi, nhưng không ai mở lời lấp vào cái tên của nạn nhân, anh ta đành cho qua. “Người đàn ông này đã bị giết bởi con người, sau đó ngụy trang cho trông giống những thi thể gần đây, gán cho con vật hòng trốn tội.”
Giống với cái chết của người gác đêm, Alfred thầm nghĩ, khẽ cau mày. Hung thủ là cùng một người chăng?
“Thi thể hẳn đã bị di chuyển trong vòng vài giờ sau khi chết, vì thế mà tứ chi mới quặt quẹo trong cái tư thế thiếu tự nhiên ấy.” Hederick giải thích, vạch ra những đường ngoắt ngoéo minh hoạ trong không trung.
“Vết thương quá sạch sẽ,” Edward bất ngờ lên tiếng. Anh nhắm mắt lại, hít sâu một hơi, để rồi khi mở mắt ra, nét mặt lập tức thay đổi. Người binh sĩ quyết liệt của thành Đá Trắng đã thế chỗ thiếu chủ Grimshaw lặng lẽ, kiệm lời.
“Thương tích nghiêm trọng như thế mà lại quá ít máu, dù có là vết thương sau khi ông ta tử vong thì vẫn ít đến bất thường. Hẳn nạn nhân đã bị giết hại nơi khác. Sau khi nguỵ tạo vết thương, hung thủ đã mang xác ông ta đặt giữa rừng cho trùng khớp những vụ án trước, đồng thời trì hoãn bị phát hiện. Không rõ hắn di chuyển nạn nhân bằng cách nào, nhưng không có dấu máu, cũng khá đấy.”
“Một nỗ lực đáng kể hòng che giấu tội ác. Đáng tiếc,” Edward hừ lạnh, “năng lực của hắn lại quá kém cỏi để có thể thực hiện ý định của mình.”
Cũng như Hederick, anh đã quen với cảnh máu chảy đầu rơi, đã chạm mặt cái chết đến chai sạn. Anh đã chứng kiến nó trong muôn hình vạn trạng, lưỡi gươm của cái chết không ít lần lửng lơ đe doạ trên đỉnh đầu, và chính tay anh cũng đã giáng lưỡi gươm ấy xuống kẻ khác.
Cái nghiệp vệ binh và Săn Quỷ những chừng thật giống nhau: Chiến đấu bằng sức mạnh, áp chế bằng vũ lực, hai bàn tay nhuốm đỏ trong màu máu tươi. Nhưng người lính có thể quang minh chính đại áp giải tội nhân ra pháp trường, huân chương sáng loáng đeo trên ngực. Một Thợ Săn chỉ có thể lầm lũi trong đêm tối, tàn tích quỷ dữ rụi thành tro dưới ánh mặt trời, những đồng bạc thay thế cho vinh quang.
Alfred trộm nhìn hai người họ đứng cạnh nhau. Đêm đen và lửa đỏ.
Hederick chợt nở một nụ cười nhạt, ánh mắt lướt một lượt từ đầu xuống chân thiếu chủ Grimshaw, sân khấu độc diễn nay bỗng xuất hiện thêm một nhân vật trung tâm.
“Nguyên nhân tử vong hẳn do một vật nặng, nhưng không quá sắc nhọn, đánh vào đầu.” Edward điềm nhiên thả nốt lời thoại, rồi im lặng nhường lượt người Thợ Săn.
Hederick lại quỳ xuống bên thi thể, bàn tay lần mò quanh vết thương, vạch mớ tóc bết máu sang bên. Nhặt lấy một mảnh xương nhỏ, anh ta xoay xoay nó giữa những ngón tay, khiến hai người phụ nữ nhăn mặt đầy kinh tởm.
“Phải. Nhiều xương vụn thế này khó là do dao bén.”
“Hắn cất công khiến vết thương bê bết ra thế này hẳn nhằm che giấu điều đó, nhưng vì sao nhỉ? Vì trông càng khủng khiếp, người ta càng dễ tin là do ‘thú vật’ gây ra chăng?”
“Có thể. Nhưng hắn cẩn thận quá thành thừa mất rồi. Nhìn là biết chẳng con vật nào làm được như thế cả. Phải bồi tận mấy nhát dọc ngang lung tung, hoặc hắn không có nhiều sức lực, hoặc là do nhát tay.”
“Nhát tay mà lại dám mổ bụng người ư? Bất khả thi. Nhưng cũng thật kì lạ. Nếu để nguỵ trang cho giống những vụ trước, cứ việc chém bừa như đã làm với cái đầu gã là được. Cất công mổ hẳn ra để làm gì?” Một tay khoanh trước ngực, tay còn lại đặt dưới cằm, Edward đưa ra phỏng đoán. “Trừ phi việc ấy có một ý nghĩa nào đó… dựa theo quy luật của ‘con vật’ - một quy luật hắn phải tuân theo nếu muốn thuyết phục chúng ta rằng kẻ này là do ‘nó’ giết hại. Anh nghĩ đó là gì?”
“Tôi chỉ đoán mò thôi, nhưng thông thường, mở hộp là để lấy quà bên trong, không phải sao?”
Edward khó chịu trước câu đùa ấy, nheo mắt lườm anh ta. “Vậy, hắn đã lấy đi một phần nội tạng ư?”
“Nghe qua thì khiếp thật, nhưng rất có khả năng.” Người Thợ Săn tặc lưỡi, miệng bảo khiếp mà nét mặt vẫn thản nhiên. “Hắn không gây tổn hại quá nhiều là cho chúng ta dễ khám xét hơn nhỉ? Tận tâm quá đi. Tiếc là tôi chẳng biết gì về mảng đó đâu, làm mất lòng hắn rồi.”
“Tôi cũng không. Làng ta không có ai thuộc chuyên môn đó, cha nhì?” Lờ đi câu chơi chữ, anh quay sang ông Edmond mà hỏi, nhận lại một cái lắc đầu. “Tạm thời bỏ qua đi. Còn khúc chân này thì sao? Đường cắt khá ngọt, có thể là do dao phay chuyên dụng.”
“Quái thật, một cái xác mà dùng lắm hung khí thật đấy. Thế vật đánh lên đầu ông ta thì sao?”
“Chưa đủ manh mối để đưa ra đáp án. Que cời lửa chăng? Cũng có thể là gậy sắt.”
“Nếu là que cời thì sẽ cần một lực rất mạnh để giết người đấy. Hoá ra hắn nhát tay thật chứ chẳng yếu ớt gì.” Hederick nhún vai.
Hai người họ hăng say tranh luận, đắm chìm trong bầu không khí mãnh liệt mà quên mất sự tồn tại của mọi người xung quanh, chỉ đưa bà Martha hay trưởng làng vào cuộc trò chuyện khi có thông tin cần xác nhận. Giọng điệu Edward chậm rãi, điềm đạm nhưng câu từ lại gay gắt, trong lúc Hederick có phần mềm mỏng hơn, thi thoảng lại mang nét trào phúng. Đôi mắt người Thợ Săn ngời sáng, rộ lên vẻ phấn khích khi cuối cùng cũng xuất hiện một kẻ ở Belltree này chẳng để anh ta dễ dàng lấn lướt, một kẻ ở vị thế có thể đốp chát lại anh ta.
Sở thích tệ hại thật đấy.
Lời họ rơi vào tai cậu chữ được chữ mất. Alfred cảm thấy mình đứng đây thật thừa thãi, buồn chán đưa mắt nhìn cái xác. Có gì đó không đúng, cậu lờ mờ linh cảm như thế, nhưng lại không xác định được chính xác nguyên do.
Nạn nhân là nam giới, bằng chứng nguỵ tạo hòng đổ vấy cho con quỷ, những điểm tương đồng giữa cái chết của Ridel và người gác đêm chỉ có thế. Vụ án người gác đêm tái hiện qua lời Hederick vô cùng lạnh lùng, chuẩn xác, và hung thủ hẳn phải là một kẻ máu lạnh. Trái lại, cái xác nằm đây trông như tác phẩm của một cơn liều lĩnh tuyệt vọng, nhưng lại vụng về, theo Edward đã nhận xét.
Ra vậy, giờ thì có tận hai tên sát nhân đang lẩn trốn. Chuyện càng lúc càng phức tạp, Alfred thầm thở dài.
Ngoài những chi tiết đã được hai người họ chỉ ra, Alfred chẳng phát hiện thêm được manh mối nào, bèn bỏ cuộc mà trộm nhìn sang cha dượng. Đuôi mắt ông đang cong lên rất nhẹ. Nhưng khi đặt trên gương mặt ông, ý cười kín đáo ấy lại mang sức nặng tương đương một tràn cười hân hoan. Dường như cuộc đối đáp kia khiến ông lấy làm vui thích, thậm chí là tự hào trước màn thể hiện của con trai.
Ba năm xa cách, vị trí người trưởng nam trong lòng ông vẫn không suy chuyển.
Nhân lúc không ai để ý đến, Alfred nhích lại gần hai chị em bà đầu bếp, thì thầm.
“Kat này, cả ngày hôm nay bà có thấy lão Crook ở đâu không?”
Katherine rất nhanh hiểu ra vấn đề, ngỡ ngàng trợn mắt. “Sao thế? Nhóc nghi ngờ gã ấy à?”
Bằng cách nào đấy, lỗ tai chuột của người Thợ Săn lại nghe thấy. Anh ta liền quay ngoắt sang. “Crook? Là ai thế?”
“Là người làm nhà tôi.” Edward đáp thay. “Có vấn đề gì ư? Sao bỗng dưng lại nhắc đến?
“Không có gì đâu.” Cậu vội xua tay. “Ông ấy và Ridel là bạn nhậu thân thiết, nên em chợt nhớ đến thôi.”
Những đặc điểm của hung thủ trùng khớp với gã ta, Alfred cúi đầu nghĩ ngợi. Một kẻ tuy sức yếu, lại đủ ngông cuồng để gây ra một loạt những hành động đẫm máu. Cây gậy sắt. Đã vắng mặt từ sáng sớm. Có xu hướng dễ nổi nóng mà dùng đến bạo lực. Biết đâu được, giữa lúc uống say, họ đã xảy ra mâu thuẫn dẫn đến ẩu đả, và rồi là ngộ sát.
Sáng nay, đầu gậy của lão có vệt bẩn nào khả nghi không? Hành động, lời nói của gã ta có gì khác thường không? Alfred cố lục lại trí nhớ, ước chi đã chú tâm quan sát hơn.
Không thể nào, cậu lại chợt nghĩ, khẽ lắc đầu để xua đi mối nghi ngờ ấy. Lão chẳng đủ khôn ngoan lẫn tĩnh trí để nghĩ ra một kế hoạch rắc rối dường này. Tuy thường ngày vẫn tỏ ra hung hăng, một khi gây hoạ lớn, thứ hay ho duy nhất lão có thể làm là phát hoảng mà tháo chạy khỏi hiện trường. Lão không thể thực hiện màn đánh lạc hướng phức tạp này, không thể nếu chỉ có một mình.
Oái oăm thay, kẻ duy nhất đủ thân quen để bằng lòng giúp lão lại chính là nạn nhân.
Vả lại, cả bộ quần áo xộc xệch, ám mùi rượu của lão ta nữa. Nếu lão là hung thủ thì đã phải thay vội bộ khác vì vấy máu, mùi rượu cũng không còn.
Không thể là lão Crook, nhưng Alfred vẫn còn lấn cấn hai điều. Vì sao sáng nay đi nhậu về, lão không về phòng đánh một giấc như thường lệ, mà lại vác gậy đi loanh quanh? Và quan trọng hơn, là gã đâu mất rồi?
Cũng như cậu, Edward đã chứng kiến màn kích động sáng nay của lão ta, và câu hỏi của cậu lại càng khiến anh thêm ngờ vực lão. Tiêu cự nơi đôi đồng tử đen thăm thẳm chợt trở nên mông lung, đôi mày nhíu chặt lại. Một thoáng giận dữ lướt qua gương mặt anh, sau đó chợt biến thành vẻ bất an. Anh đưa mắt về phía cậu, khoé môi run run tựa hồ muốn thốt lên điều gì.
Sao anh lại mất bình tĩnh nhỉ, Alfred thắc mắc, hay lại phát hiện thêm được gì? Nhưng lão Crook không thể là hung thủ, không đời nào, cậu lập đi lập lại trong đầu, như thể nếu đủ mãnh liệt thì ý nghĩ ấy cũng sẽ được truyền sang anh.
Những lúc như thế này, cậu lại ước mình có phép thần giao cách cảm.
“Bà Ridel, lần cuối bà nhìn thấy chồng mình là ở đâu, khi nào?” Edward cuối cùng quyết định không truy cứu gì thêm về gã người làm, tạm bỏ qua mà quay sang hỏi bà Martha.
“Lão đi đâu, làm gì, đâu đến lượt tôi quản.” Người đàn bà xì ra một tiếng, đáp cụt lủn. “Là đêm qua.”
“Có thể cụ thể hơn không, thưa bà?” Đến lượt Hederick lên tiếng.
“Vừa xong bữa tối là lão cầm áo khoác đi. Đi rượu chè, đương nhiên rồi, nhưng với ai thì có trời mới biết! Tôi đâu rảnh đợi lão về, dọn dẹp xong thì ngủ thôi. Đến sáng mãi chẳng thấy tăm hơi đâu, hoá ra là,” bà hất đầu về hướng cái xác, hừ lạnh, “nằm một đống đây mất rồi.”
“Có khi nào… ông ấy đi nhậu với tên Crook, rồi say bí tỉ mà lao vào đánh nhau không?” Nhận được cái gật đầu khích lệ từ chị mình, bà Katherine thêm dạn dĩ mà gợi ý. “Ai cũng biết hai người họ nóng tính thế nào mà.”
“Dám lắm! Hai tên ăn hại một chín một mười! Cái lão ấy rượu đã vào là lời ra tứ tung, chẳng biết kiểm soát mồm miệng! Chị đã cảnh cáo rồi, có ngày vạ mồm mà rước họa vào thân. Giờ thì nhìn xem!”
Martha hưởng ứng lời em gái nhiệt tình. Alfred ngượng ngạo đưa tay xoa xoa gáy, cảm thấy hối hận vì bỗng vạ mồm hỏi về lão Crook. Giờ thì tên lão đã được gợi lên, thật dễ dàng để bám vào cái kết luận rằng một kẻ cục cằn, thô kệch như lão là hung thủ, ngay cả khi khả năng ấy đầy rẫy những điểm bất hợp lý. Nếu không vì cha dượng ra hiệu ngừng lại, bà Martha hẳn đã càm ràm thêm một tràng dài.
“Thế… thường có ai khác ngoài Crook đi uống rượu cùng ông ấy không?”
“Không đâu.” Bà khẳng định chắc nịch.
“Thôi, như thế là đủ rồi.” Hederick vỗ hai tay vào nhau, đôi găng dày khiến tiếng vỗ èo uột thấy rõ. “Cảm ơn vì đã giải đáp những thắc mắc của chúng tôi, bà có thể về được rồi… À, quên mất,” anh thoáng ngừng lời, ngẩng lên với một nụ cười lưng chừng trên môi. “Tôi mong hai người hẵn khoan bàn tán chuyện với bất kỳ ai, được chứ?”
Đáp lại nụ cười như đe doạ của anh ta, Martha trợn mắt sửng sốt, căng người toan sừng cồ lại một trận. May mà bà Kat đã nhanh tay hơn, kéo xền xệt chị mình đi, vội vàng đến nỗi quên luôn câu chào tạm biệt.
Nhìn theo bóng lưng hai người họ khuất dần, Edward khẽ lắc đầu.
“Dù hung thủ có là ai đi chăng nữa, hắn cũng không thoát được đâu. Cha yên tâm, sẽ sớm bắt được hắn thôi.”
Người Thợ Săn gật gù đồng tình, đoạn chỉ tay vào cái xác tả tơi. “Thế, tôi bắt tay vào chôn cất ông ta nhé. Nhưng thú thật, tôi không rõ lắm quy cách của vùng này đâu. Ai làm ơn nhắc cho tôi với.”
Không như vùng Silva, Serafin - quê hương Heredick - có tập tục hỏa táng. Lưu giữ thân xác phàm trần chỉ khiến linh hồn người chết không thể tự do, thanh thản, người dân Serafin tin là thế. Nếu người Silva trao trả người chết về Đất Mẹ, họ hiến dâng thi hài cho lửa thiêng, dùng sinh mệnh đã cạn thắp lên ánh lửa rực rỡ cuối cùng.
Là lực lượng quân sự nòng cốt của Celestia, quân đội Serafin luôn gánh chịu nhiều tổn thất khi xảy ra xung đột. Sau những trận đánh khốc liệt, chiến trường mọc lên những đài hoả táng khổng lồ, tạm bợ, lửa đỏ giương chiếc lưỡi dài rừng rực quét qua những núi xác người. Cột khói vươn cao chạm đến tầng mây, dẫu là bên kia chiến tuyến vẫn có thể nhìn thấy, ép chẹt mây trắng trong cái sắc xám tang tóc, u uẩn.
Mùi tử thi cháy khét, tro tàn tựa mưa từ trời cao rải xuống, ngọn lửa ngùn ngụt nung khô mặt đất đẫm máu. Với người dân Serafin, ấy là những dư vị quen thuộc nơi chiến trường.
“Alfred, con ở lại giúp đi.” Cha dượng bỗng dưng lên tiếng, khiến Alfred giật thót. Chẳng cần đợi nghe câu trả lời của cậu, mà nó còn có thể là gì hơn ngoài “Vâng, thưa cha”, nụ cười trên môi Hederick trở nên rạng rỡ.
Được thế thì tốt quá.” Anh ta ra vẻ hào hứng. “Vậy thì…trước hết cần cái xẻng nhỉ? Easton, cậu biết chúng để đâu không?”
“Tôi biết. Để đấy tôi.” Edward vội lên tiếng cắt ngang. “Alfred, em về trước đi. Những việc thế này-”
Đồ ngốc, cậu thầm mắng ngay khi anh thốt ra những lời ấy, chuyện giữa anh và cha còn chưa đủ rắc rối hay sao mà còn sinh sự. Bản thân Edward cũng lập tức nhận ra sai sót mà chững lại, ái ngại quay sang đối mặt cha. Ánh mắt cha con nhà Grimshaw chạm nhau, và chỉ trong một tích tắc, đầu anh đã cúi gằm.
“Cảm ơn anh, nhưng không sao đâu. Cha và anh cứ về trước đi.” Alfred lớn giọng, thành công kéo ánh nhìn của trưởng làng về phía mình. Dùng đến âm điệu nghiêm chỉnh hết sức, cậu bảo cha dượng. “Việc ở đây cha không cần bận tâm đâu. Con lo liệu ổn thoả được mà.”
Cha dượng không đáp lại ngay, quai hàm vuông vức siết chặt. Cái nhìn chằm chằm của ông khiến cậu suýt thì túa mồ hôi lạnh, nhưng Alfred ngoài mặt vẫn trưng ra biểu cảm vô tội, đôi môi khẽ mỉm cười.
Sau nửa phút kéo dài như mãi mãi, ông vẫn không đáp, thay vào đó là một cái gật đầu lặng lẽ. Ông khoát tay ra hiệu cho con trai cùng rời đi. Lần này, Edward biết rõ hơn mà lẳng lặng theo sau, cách ông một khoảng áng chừng vài bước chân.
Bình luận
Chưa có bình luận