“Thế,” người Thợ Săn chợt bảo, “Cậu có câu hỏi nào không?”
“Câu hỏi? Về điều gì?”
“Về bất cứ điều gì.” Hederick khẽ nhún vai. “Không phải cậu đang có nhiều thắc mắc sao?”
Alfred ngừng bước, ngoái đầu nhìn thẳng vào mắt anh ta. Theo sát sau cậu, Hederick suýt không chững lại kịp thời, loạng choạng suýt ngã.
Khoảng cách giữa hai người lúc này thật gần, gần đến đỗi làn khói trắng phả ra vẩn vương chạm vào khuôn mặt đối phương, nhưng lại chẳng đủ gần để cậu thấy được ánh nhìn đáp lại nơi đôi đồng tử màu hổ phách kia có chăng là chân thật.
“Đúng là thế thật.” Alfred thở dài. “Nhưng sau chuyện ban nãy… tạm thời tôi quên mất mình đã muốn biết những gì rồi.”
Hederick nhướng mày ngờ vực. “Vậy ư?”, anh ta bảo, rồi búng tách một tiếng giòn giã như chợt nhớ ra điều gì. “Thôi thì, để sau cũng được. Thay vào đó, tôi có chuyện này muốn nói. Đưa tay đây, Easton.”
Bất ngờ trước yêu cầu ấy, cậu bán tín bán nghi nheo mắt nhìn anh ta, đoạn lia mắt quan sát xung quanh. Họ đang bước đi trên đường chính của làng, và dù không nhiều, vẫn có những cặp mắt lặng lẽ dõi theo.
Chần chừ mãi giữa đường thì lại trông khả nghi, Alfred bồn chồn cắn môi, chìa tay ra theo lời người Thợ Săn. Bàn tay bọc trong chiếc găng nhung cầm lấy cổ tay cậu. Chỉ là một cái nắm hờ, anh ta thậm chí còn không dùng lực, nhưng Alfred vẫn phải vận hết kiên nhẫn để không lập tức giằng ra.
Tay còn lại chôn trong túi áo choàng, Hederick từ đấy lôi ra một quả cầu nhỏ. Anh thả nó vào lòng bàn tay cậu, đồng thời buông tay mà bước lùi về sau.
“Nhớ nó chứ, Easton?”
Alfred gật đầu. Quầng mực đen bên trong Truy Ma Thạch đang im lìm say ngủ. Cậu gõ gõ lên mặt cầu vài cái, chẳng có phản ứng gì.
“Những ngày qua, tôi đã mang nó đến hiện trường cũng như những nơi khả nghi trong làng, mong rằng sẽ tìm được chút tàn đọng nào, nhưng vô ích.” Hederick ngẩng đầu đón tuyết rơi, ánh mắt bỗng hướng về xa xăm.
Ra thế. Hoá ra anh ta chẳng ăn không ngồi rồi như cậu đã nghĩ, thật ngại quá.
“Không một manh mối nào. Hoàn toàn không.” Người Thợ Săn khẽ lắc đầu, âm giọng trầm xuống tựa đang lẩm bẩm với chính mình. Quả nhiên, anh ta đang dần mất kiên nhẫn. Kế hoạch của anh ta - dù là kế gì đi nữa - đã không diễn ra như mong đợi.
Sao thế nhỉ? Cậu tự hỏi. Lẽ nào anh ta chưa gặp phải trường hợp tương tự trước đây?
“Có lẽ tôi nên mở rộng phạm vi tìm kiếm ra bìa rừng.” Hederick thở dài. “Khả năng cao là chẳng tìm thấy gì đâu, nhưng biết đâu được. Thà nhầm còn hơn bỏ sót.”
“Tôi tưởng anh nghĩ con quỷ đang ký sinh trong cơ thể phu nhân chứ?” Alfred nghiêng đầu thắc mắc.
Người Thợ Săn suỵt một tiếng, gương mặt nghiêm lại ánh lên vẻ cảnh giác. “Khẽ thôi, Easton. Lẽ ra chúng ta nên giành cuộc nói chuyện này cho nơi nào riêng tư hơn mới phải.”
“Anh nghi ngờ có người nghe lén ư?” Cậu buột miệng hỏi, rồi tự thấy trúng tim đen. “Là ai vậy?”
“Bất kỳ ai. Đó là điều tôi đang cố giải thích đây.”
Cậu lại im lặng gật đầu, nuốt xuống cơn cồn cào. Họ đang là trung tâm của sự chú ý, điều này cậu đã biết. Những ánh mắt tò mò, những đôi tai vểnh lên nghe ngóng, dù giả vờ tất bật với việc riêng nhưng thực chất lại đang chăm chú ngóng theo. Nhưng trong số những kẻ ấy, cậu không cảm nhận được có kẻ nào lại theo dõi họ với ác ý.
Một bầy cừu ngây thơ, ngờ nghệch, như cha dượng đã ví von.
Nhưng Hederick đã chỉ ra rằng cái chết của người gác đêm chẳng phải do quỷ dữ, mà là tác phẩm của con người.
Con sói đội lốt cừu đang nhởn nhơ, hoà lẫn trong họ, và cũng theo lời người Thợ Săn, hắn có thể là bất kỳ ai.
Anh ta tiếp tục cất bước, lần này tiến lên đi trước, ngoắc tay ra hiệu Alfred theo sau. Cố tình thong thả rải bước để song song cạnh cậu, anh ta thì thầm.
“Cơ mà, không phải tôi đang đi loanh quanh để tìm con quỷ. Tôi tìm thứ khác kia. Easton này, tôi từng phân tách về vụ việc của người gác đêm, phải chứ? Hôm ấy, tôi đề cập thiếu một chi tiết vô cùng quan trọng. Ông ta không chỉ là nạn nhân nam duy nhất, mà cũng chỉ riêng thi thể ông ta là còn nguyên vẹn - nguyên vẹn theo nghĩa không mất đi khúc nào ấy.”
“Nạn nhân thứ ba mất tay trái, thứ năm mất từ khuỷu chân phải trở xuống, thứ mười một trở lên, thứ sáu tay phải, những người còn lại bị moi mất nội tạng, hay đại loại thế. Chỉ mỗi ông ta là không. Cùng với manh mối là ông ta chẳng phải do quỷ giết hại, tôi đồ rằng con quỷ ấy đang thu thập các phần cơ thể phụ nữ. Chính xác hơn là thiếu nữ.”
Cảm giác kinh tởm dợn lên. Alfred như chôn chân trên nền tuyết, mắt không rời người Thợ Săn. Hederick vỗ nhẹ vai cậu, giục cậu tiếp bước.
“Nhưng nếu thế, những phần cơ thế ấy đang ở đâu? Không thể chui vào bụng nó. Quỷ ký sinh làm gì biết ‘ăn’. Uống được là cùng. Nó hẳn đã giấu chúng đâu đó gần đây. Một nơi thường xuyên lui tới trong dạng chân thể như vậy, dù ít, hẳn sẽ còn phảng phất tà khí. Tôi đã hy vọng ma thạch này sẽ dò ra được nơi cất giấu ấy, nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả.”
Nói đến đấy, Hederick thở dài thườn thượt, đột nhiên đi nhanh hơn, buộc Alfred phải sải dài bước chân để bắt kịp anh ta.
“Nhưng… nó làm thế với mục đích gì?”
“Tôi không rõ. Nhưng có thể thấy một điều: con quỷ đấy không giết chóc vô tội vạ. Nó có mục đích, và đủ khôn ranh để hành động vì mục đích ấy. Nó còn biết tránh mặt tôi nữa cơ mà, quỷ tha ma bắt’, anh ta hừ lạnh, “Nó là một con quỷ cấp cao, chắc chắn là thế.”
Về căn bản, quỷ là các tạo tác mô phỏng sinh vật sống. Những con quỷ càng cao cấp càng giống người, không chỉ về ngoại hình mà còn ở khả năng tư duy, hành xử. Nhưng dù có hoàn chỉnh đến đâu, chúng vĩnh viễn là những bản sao thất bại. Bởi như bao tạo vật khác của Tà Thần, quỷ không có linh hồn.
Nhân chủng không thể tồn tại nơi Nhân giới nếu thiếu đi linh hồn, luật lệ ấy đã được ban xuống bởi các vị thần Thượng Cổ từ những ngày đầu kiến tạo thế gian, bất di bất dịch. Là nhân loại, á nhân hay thú nhân không quan trọng, đã mang danh ‘nguời’ thì tuyệt đối phải tuân theo.
Vì lẽ đó, không như đám quỷ nhỏ, những ‘con người’ khiếm khuyết phần hồn gặp trở ngại trong việc đặt chân vào Nhân giới. Chúng cần đến lời triệu gọi của một con người thực thụ, dùng khế ước trói buộc linh hồn kẻ ấy vào cái lõi rỗng tuếch bên trong chúng. Khi ấy, với linh hồn san sẻ tạm bợ, chúng mới có thể trỗi dậy từ chốn ngục tù tăm tối.
Nói cách khác, nếu nó thực sự là quỷ cấp cao, có kẻ đã chủ tâm khơi lên thảm kịch này.
“Với địa thế tách biệt của làng cậu, chẳng con quỷ nào lại lạc đến tận đây đâu, trừ phi là quỷ mù đường.” Thích thú với câu đùa của mình, Hederick phì cười. Vờ như không nghe thấy, Alfred giữ ánh nhìn trừng trừng về phía người Thợ Săn, khiến anh ta ho khan một tiếng rồi tiếp tục.
“Tôi e rằng một trong những dân làng là thủ phạm gọi lên con quỷ, Easton. Và rất có thể, hắn cũng chính là kẻ đã ra tay sát hại người gác đêm. Nghĩ mà xem. Ông ta vô tình chứng kiến nghi thức triệu hồi, hay thứ gì đại loại thế. Nhưng vì không rõ đấy là gì, ông ta đã không kể lại cho ai. Xui xẻo thay, bằng cách một nào đó, tên kia lại phát hiện ra chuyện mình bị bại lộ, và dĩ nhiên hắn không thể bỏ qua cho nhân chứng. Đã cả gan động đến điều tối kỵ, thì tự tay kết liễu một mạng người còn là gì ghê gớm với hắn đâu.”
Những lời của Hederick rủ rỉ bên tai. Những cái đầu vội vã quay đi khi chạm mắt cậu, những cũng có vài người sau thoáng bối rối bèn vẫy tay chào, ngượng ngùng mỉm cười.
Là ai? Là kẻ nào trong số những gương mặt quen thuộc kia là thủ phạm? Làm sao hắn biết được nghi thức triệu hồi quỷ dữ - thứ cấm thuật mà riêng việc tàng trữ ghi chép về nó cũng đủ lãnh án tù mọt gông? Hắn có được chúng từ đâu?
Lồng ngực Alfred như thắt lại trong nỗi bàng hoàng xen lẫn giận dữ, một sự giận dữ hoàn toàn tách biệt với thứ mà cậu đã cảm thấy khi đối diện Hederick nơi Tháp Chim. Cơn giận này không thôi thúc cậu gào lên cho thoả lòng. Nó âm ỉ, thầm lặng hơn thế. Mà cũng đáng sợ hơn, và cậu không biết phải làm gì để xoa dịu nó.
À, cậu chợt nhận ra, tên của nó là phẫn nộ.
Bàn tay đang buông thõng siết chặt. Bao sinh mạng đã vì hắn mà mất. Bao đau thương đã vì hắn mà đổ thành sông. Làm sao hắn có thể trơ mắt chứng kiến tất cả những ai oán ấy mà vẫn dửng dưng sống tiếp?
Và vì sao hắn lại làm thế? Động cơ của hắn là gì? Vì hắn muốn thấy cảnh máu chảy đầu rơi, vì hắn đã phát chán cái cuộc sống bình lặng không đổi này, hay vì hắn đang ôm nỗi hận máu trong lòng?
Nhưng dù nguyên do là thế nào, cũng có quan trọng không? Những đầu móng tay hằn sâu vào da thịt, cái cảm giác nhói đau chỉ khiến cậu càng thêm căm phẫn.
Không một lý do nào là thoả đáng với những thân nhân hãy còn chưa nguôi khóc thương kia. Không một câu chuyện thương tâm nào có thể ân xá tội lỗi hắn gây ra. Nếu động lòng thương xót hắn, dù chỉ là chút thương hại thoáng qua, thì khác nào trong chốc lát ấy, cậu đã thầm thừa nhận rằng cái chết của những thiếu nữ kia là lẽ tất yếu.
Gương mặt những cô gái ấy vụt hiện lên trong tâm trí cậu. Không khó để nhớ lại họ đã từng tươi đẹp, từng rạng rỡ ra sao. Những nụ cười ấm áp, những giọng nói trong trẻo tựa chuông ngân, những cử chỉ tràn trề nhựa sống. Alfred không thân thiết họ, nhưng họ đã luôn là một phần của cái thế giới nơi cậu đang sống, và lẽ ra phải tiếp tục là như thế thêm rất lâu về sau.
Tất cả những đẹp đẽ ấy đã bị tàn nhẫn tước đoạt, chỉ vì ý muốn của một kẻ điên tàn nhẫn. Xác lạnh tựa con búp bê vải bị xâu xé rũ rượi chốn mông quạnh. Máu đen nhuộm ố đồng tuyết trắng, vấy bẩn váy dài và làn da thiếu nữ, nhấn chìm sinh mệnh.
Không thể tha thứ. Tuyệt đối không thể tha thứ.
Alfred khẽ lắc đầu, cố xua đi cái suy nghĩ u ám ấy.
“Khoan hãy căng thẳng quá, Easton.” Như nhận ra tâm trí cậu dần trở nên hỗn loạn, người Thợ Săn huých nhẹ khuỷu tay vào cậu, lên tiếng trấn an. “Tuy nói ra thế này có khi còn làm cậu hoảng hơn, nhưng những ngôi làng hẻo lánh vẫn thường bị lũ tà sư để mắt, dùng làm ‘chuột bạch’ cho những thí nghiệm vô nhân tính của chúng, nên chưa chắc gì kẻ chủ mưu đã là người làng Belltree.”
Nghe thế, Alfred dở khóc dở cười. Tuy cậu thật lòng mong thủ phạm chẳng phải ai đó cậu quen biết, nhưng Hederick nói đúng. Nếu hắn là bè lũ tà sư thì lại càng nguy hiểm hơn bội phần.
Cả hai khả năng đều hết sức điên rồ, và cậu chẳng thích cái nào hơn cả. Cậu khẽ thở dài, tự hỏi liệu anh ta đã bao giờ chạm mặt một tà sư trước đây. Alfred không rõ về chúng, chỉ biết rằng tà sư là hạng người đồi bại, hèn hạ và tràn đầy dã tâm. Thoại nghe qua giống hệt những nhân vật phản diện nhàm chán trong truyện cổ tích, nhưng chúng chính xác là như thế. Còn cách nào khác để nói về những kẻ sẵn sàng bán rẻ linh hồn cho quỷ dữ chỉ vì sức mạnh và hư vinh?
Hiểu lầm tiếng thở dài ấy thành sự nhẹ nhõm, người Thợ Săn tiếp tục. “Nói thế thôi, nhưng nếu cậu nghĩ ra được cái tên nào khả nghi, làm ơn cho tôi biết, nhé?”
Những cái tên ư? Alfred nghiêng đầu nghĩ ngợi, đôi mày thoáng chau lại. Nếu xét theo phương diện có ác ý nhắm đến phu nhân - vật chủ trong giả thuyết - thì cậu có thể lập tức cho anh ta một danh sách dài. Nhưng trong số họ, những kẻ có đủ khả năng, hay chí ít có cơ may bắt gặp tài liệu về tà thuật, chỉ có những người nhà Grimshaw và-
“Ban nãy,“ Alfred siết chặt viên Truy Ma Thạch trong tay, cất tiếng hỏi, “Anh mang thứ này theo làm gì?”
Hederick khẽ chớp mắt, biểu cảm không mảy may gợn sóng, nhưng cái khựng lại trong thoáng chốc đã vạch trần anh ta.
“Hederick,” Alfred lập lại, “Anh mang nó theo để làm gì?”
“Thử nghĩ xem, Easton, từ góc nhìn của một Thợ Săn như tôi?” Người Thợ Săn điềm tĩnh đáp lại bằng một câu hỏi khác, rồi liền tự trả lời. “Một người đàn ông trung niên đơn độc, chỉ có sách và lũ chim bầu bạn, tràn trề bất mãn. Ông ta phẫn nộ với sự đối đãi của trưởng làng, khinh thường dân làng với cái niềm tin rằng so với đám người dốt nát mù chữ kia, ông ta là kẻ thông thái hơn. Trông thế nào cũng thật đáng ngờ, không phải sao? Nơi thư viện làng cậu, tôi đã thấy qua những cuốn sách dễ có đến hàng chục niên đại. Ai biết được lẫn trong chúng còn chứa những gì? Cậu đừng quên, ông ta đã trộm được con dấu của Grimshaw đấy thôi. Nếu có thuận tiện cuỗm từ đâu một quyển sách cấm thì cũng chẳng đáng ngạc nhiên.”
Những lý lẽ của anh ta hoàn toàn hợp lý, nhưng Alfred vẫn cứng đầu phản bác. Cậu chợt thấy mình có bổn phận phải đứng về phía Bryson, để bù đắp cho việc đã ngoảnh mặt làm ngơ với ông lúc trước.
“Con gái ông ấy cũng là nạn nhân mà, lại còn là người đầu tiên. Lẽ nào ông ấy nhẫn tâm xuống tay với cả máu mủ của mình sao? Vả lại nếu dính líu đến, việc gì ông ấy phải gửi thư cho Hội Đồng mà để lộ đuôi chuột? Nếu muốn, ông ấy có thể giấu đi lá thư của trưởng làng, tiếp tay cho con quỷ hoành hoành đấy thôi.”
“Đã bảo là từ góc nhìn của một Thợ Săn rồi mà, Easton.” Hederick đưa tay cào qua mái tóc, đôi mắt bất chợt loé lên một tia sắc lạnh. “Tôi đã thấy quá nhiều để nhận ra rằng với một số người, máu mủ chẳng là gì đâu. Hơn nữa, đâu thể loại trừ khả năng cái chết của cô Jane Bryson vốn không nằm trong dự kiến của ông ta - một tai nạn xui rủi. Dù có là một pháp sư tài ba cũng khó mà kiểm soát được quỷ dữ hoàn toàn.”
Những lời lẽ lạnh lùng, nhưng một lần nữa, người Thợ Săn nói đúng. Với một kẻ đã phạm đến cấm thuật, đã không còn có thể dùng nhân tính lẫn lẽ thường để suy xét hành động của hắn ta.
“Tôi hiểu quan điểm của anh,” Alfred ngúc ngắc đầu, âm giọng hạ xuống thành những tiếng thì thào, “Nhưng không thể là ông ấy được. Anh không hiểu đâu, Bryson yêu con gái mình hơn bất cứ điều gì, hơn cả tính mạng của bản thân. Nếu chị ta là vì ông ấy mà liên luỵ, ông ấy tuyệt đối sẽ không màng sống tiếp.”
“Cậu đang để cảm xúc cá nhân xen vào quá nhiều đấy.” Người Thợ Săn nhướng một bên mày, nghiêm nghị nhận xét, một nhát đâm thẳng vào tim đen. “Có vẻ như cậu không chỉ bênh vực ông ta vì thương cảm, nhỉ? Hai người thân nhau sao?”
“...có thể nói vậy.” Alfred thoáng ngập ngừng, miễn cưỡng qua quýt bằng một nụ cười gượng.
Khi mẹ qua đời, bơ vơ giữa sự lạnh nhạt, ghét bỏ của nhà Grimshaw và hoang mang trước những lời ra tiếng vào, những ánh nhìn thương hại mà e dè từ dân làng, ngỡ như có một cái hố dần dần mở miệng dưới chân cậu, chầm chậm nuốt lấy cuộc sống bình yên ngày nào vào vực sâu tăm tối.
Chỉ riêng Bryson, gã đàn ông mà mọi người cho là kỳ quặc, là không thay đổi thái độ. Ông chẳng vồn vã chia buồn, chẳng tò mò hỏi chuyện, mà cũng chẳng âm thầm bài xích, như thể chưa từng có điều gì đổi khác. Trong những ngày tháng đầy biến động ấy, cái con người mộng mơ sống trong thế giới của riêng ông bỗng trở thành chiếc mỏ neo để cậu bám víu vào.
“Dạo này nhóc không đến mượn sách nữa à? Tiếc thật đấy,” ông bâng quơ bảo trong một lần vô tình chạm mặt, vô tư đến suồng sã, “Thi thoảng cứ mò qua cho chỗ ta có sinh khí chút đi.”
Alfred nhận lời nào phải vì mấy quyển sách, mà là để náu mình nơi bầu không khí tĩnh lặng của Tháp Chim. Một thời gian sau, Bryson lại bảo, nửa đùa nửa thật, rằng cậu đâu thể đến thư viện mà ngồi chóc ngóc đến hết ngày. Bất đắc dĩ, cậu chọn bừa lấy một cuốn trên kệ.
Thật ra, cậu biết dù không làm thế, ông vẫn sẽ không nỡ đuổi cậu đi. Nhưng chỉ một việc đơn giản lại có thể làm cả hai vui lòng, không lý gì Alfred lại chối từ.
Lặng lẽ như thế, không biết tự lúc nào, niềm yêu thích những con chữ mà mẹ vun đắp cho cậu từ tấm bé và cũng theo cái chết của bà mà tàn lụi trong nỗi muộn phiền, chợt chớm nở trở lại, một lần nữa điểm tô những gam màu rực rỡ lên cái thế giới chực hoá hai màu trắng đen.
Nếu đem chuyện ấy kể lại, thể nào cũng bị cười bảo vớ vẩn. Có thể nó thực sự chẳng quan trọng đến thế. Dù có Bryson hay không, cậu vẫn sẽ sống, dù là sống theo một cách hoàn toàn khác.
Chẳng biết ‘Alfred’ phiên bản nào sẽ tốt hơn, và cậu cũng chẳng cần biết. Cậu không ưa thích bản thân của thực tại, nhưng cái con người vẫn giữ được một phần quá khứ có mẹ kề bên, vẫn tìm thấy được mơ hồ hình bóng bà trong sở thích họ đã từng chia sẻ, tuyệt đối không thể đánh đổi.
Chưa một lần Alfred nói thành lời niềm cảm kích, và có lẽ Bryson cũng chẳng ngờ mình đã trở thành người quan trọng trong lòng đứa trẻ nọ. Một tình bạn, nếu có thể gọi nó là thế, đầy kì lạ. Suy cho cùng, nơi Belltree này, một tâm hồn mơ mộng viễn vông cùng sách truyện thì có thể tìm được bao nhiêu kẻ đồng điệu tâm giao?
Một ngày nọ khi thoáng thấy những vệt xanh tím bên dưới tay áo, ông từng hùng hổ bảo cậu rằng nếu muốn, cứ việc vác hết đồ qua Tháp Chim ở cùng ông. Tuổi trung niên buồn chán có người bầu bạn, lại được giúp việc không công, thích còn gì bằng.
Dĩ nhiên, Alfred lắc đầu từ chối, nhưng đề nghị ấy khiến cậu vui vẻ nhiều hôm liền.
Hederick nào biết những điều đó, những mẩu chuyện tầm phào mà dẫu sau bao năm cậu hãy còn khư khư giữ lấy. Nhưng trực giác nhạy bén đã mách bảo anh ta về những ẩn ý đằng sau nụ cười gượng kia.
“Ra vậy. Xin lỗi, mong cậu hiểu cho, nhưng tôi không còn cách nào khác ngoài tạm thời đưa ông ta vào diện tình nghi. Xin đừng lo lắng, tôi nhất định sẽ cố giữ hoà khí, lần này là thề độc.” Người Thợ Săn khẽ cúi đầu, bàn tay trịnh trọng đặt lên ngực trái, một cử chỉ chân thành đến ngạc nhiên. “Ngày mai, khi ông ấy đã có thời gian bình tĩnh trở lại, tôi sẽ giải thích rằng tất cả là do tôi tự biên tự diễn… và cậu chỉ không may bị cuốn vào thôi.”
“Thôi thôi! Đừng!” Cậu nghe thế liền kịch liệt xua tay, không hiểu sao rợn cả người. “Như thế là nói dối đấy. Với lại, anh đừng vì tôi nổi khùng nổi điên mà nhận hết lỗi vào người chứ. Trời ạ, để đấy tôi tự làm tự chịu!”
“Được rồi, được rồi… Easton này, đừng giận nhé, nhưng cái ấn tượng đầu rằng cậu là một người hoà nhã tiêu tùng mất rồi.” Anh ta phá lên cười, để rồi tiếng cười lại càng thêm giòn giã khi bắt gặp cái lườm của cậu. “Phải rồi, chính xác là cái thái độ đó!”
Đưa tay quệt đi giọt nước mắt vô hình, nụ cười toe toét trên gương mặt anh ta hoá thành cái nghoẻo môi bí hiểm. “Dù sao thì, cả một con chuột nhắt vẫn sẽ hung hăng lồng lên nếu bị chọc đúng chỗ. Tôi nói phải chứ?”
“Anh lại lan man cái gì đấy?”
“Ái chà,” đáp lại cái nhìn trợn trừng của cậu, Hederick thản nhiên giơ lên hai bàn tay, và Alfred tự hỏi làm thế nào sống mũi thẳng tắp kia đến nay vẫn chưa bị ai đấm lệch sang bên, “Ý tôi là an tâm đi, Easton. Tôi chẳng dại bày trò phá phách con chuột nhắt nọ rồi để bị cắn đâu. Ngứa lắm.”
Ngứa à? Cậu ậm ừ một tiếng vô thưởng vô phạt trong cổ họng, hằn học dí viên Truy Ma Thạch trở vào túi áo người Thợ Săn. May cho anh ta đang là mùa đông. Bằng không, đêm nay Hederick sẽ thấy dưới chăn mình chất đống lá tầm ma.
Bình luận
Chưa có bình luận