Tôi đã khóc rất nhiều khi biết chuyện đấy. Khóc không thành tiếng, cũng chẳng dữ dội, chỉ là nước mắt cứ thế tuôn ra như thể cơ thể tôi đã hiểu rõ hơn tôi rằng: có một điều gì đó không thể cứu vãn được nữa.
Tôi từng viết và nghĩ rất nhiều về tình yêu. Những năm tháng còn đi học, rồi cả sau này, tôi luôn cho rằng mình hiểu nó, hoặc ít nhất là hiểu cách người ta yêu nhau. Nhưng sự thật là tôi chưa bao giờ quen được với cảm giác đứng thật gần tình yêu.
Tôi bắt đầu thích cậu ấy từ giữa năm lớp 10. Không có khoảnh khắc nào đặc biệt cả, chỉ là một buổi chiều cậu đứng trao đổi với thầy ở hành lang. Tôi ngồi ở bàn cuối dãy ngoài cùng, dù giả vờ cúi đầu đọc sách nhưng vẫn len lén nhìn ra vài lần. Khi đó ánh nắng đổ xuống đúng một nửa vai cậu, mỏng và vàng, làm mấy sợi tóc phía sau lấp lánh như nhuộm ké một chút sắc trời cuối năm.
Tôi không kể cho ai nghe về việc mình đã để ý cậu. Một phần vì sợ bị trêu, phần còn lại là tôi biết rõ vị trí của mình ở đâu. Cậu ấy là kiểu người mà ai cũng có thể thích, thích một cách công khai, đàng hoàng, không cần phải giấu.
Còn tôi thì đã quen đứng ngoài những thứ rõ ràng như vậy từ rất sớm. Tôi cũng chưa từng nghĩ mình thuộc về những lựa chọn hiển nhiên. Dù lên cấp ba, những lời khen đến với tôi nhiều hơn, đều đặn hơn. Nhưng mỗi lần nghe, tôi chỉ gật đầu cảm ơn hoặc cười cho xong, giống như đang thay ai đó nhận hộ lời khen mà thôi.
Những lời khen ấy không làm tôi tự tin hơn. Trái lại, chúng chỉ khiến tôi căng thẳng một cách vô nghĩa. Tôi bắt đầu quen với việc tự nhủ rằng người ta khen vì ánh sáng lúc đó đẹp, vì hôm ấy tôi đứng đúng góc, vì tôi vô tình hợp mắt trong một khoảnh khắc nào đó. Trong đầu tôi luôn cố định rằng những lời ấy chỉ đúng trong chốc lát, hoặc đúng vì lịch sự, chứ không phải vì người ta thật sự nhìn thấy tôi.
Mỗi tối, tôi thường đứng trước gương rất lâu. Không phải để ngắm nhìn, mà để dò xét. Tôi tự hỏi tóc mình có quá xẹp không, mặt có lệch đi nhiều vì hay nằm nghiêng một bên không, nụ cười có đủ duyên để người khác không phải khó xử khi nhìn vào không. Tôi nhìn kỹ đến mức khó chịu, và lần nào cũng vậy, tôi luôn tìm ra được một chỗ nào đó không ổn.
Còn cậu ấy thì khác.
Cậu ấy không cần phải đứng trước gương để tự hỏi vì sao mình được thích. Cậu ấy cũng không cần cố gắng để trở nên vừa mắt ai. Cậu ấy giỏi một cách rõ ràng, theo đúng nghĩa khiến người khác phải đứng lùi lại một bước để ngước nhìn.
Có lần, tôi nghe mấy bạn nữ trong lớp bàn về cậu. Họ nói nếu có người như vậy thích mình thì chắc tự tin lắm.
Khi ấy tôi chỉ im lặng nghe, trong lòng lại nghĩ một điều hoàn toàn khác. Tôi nghĩ nếu người đó là tôi, tôi sẽ sợ nhiều hơn là vui. Sợ không phải vì cậu quá giỏi, mà do tôi biết rõ mình mong manh đến mức nào khi đứng trước ánh nhìn của người khác. Tôi sợ một ngày nào đó, khi cậu nhìn tôi kỹ hơn, cậu sẽ nhận ra tôi không giống như những gì người khác nói. Rằng tôi chỉ là một người bình thường, khoác tạm lên vai vài lời khen để đứng nhờ trong ánh sáng của một khoảnh khắc.
Vậy nên tôi chọn cách đứng xa.
Tôi quen với việc làm mờ sự tồn tại của mình. Quen đến mức không cần cố gắng cũng có thể rút lui rất gọn. Tôi thích cậu, nhưng không bước tới. Tôi quan tâm cậu, nhưng luôn giữ lại cho mình một lối thoát, vì tôi tin rằng chỉ cần không tiến lên thì sẽ không có gì để mất. Ở khoảng cách đó, tôi an toàn.
Tôi không cần nói chuyện với cậu để biết cậu thích ăn sáng món gì, ghét môn nào, hay giờ ra chơi thường kéo ghế ngồi ở góc nào để cười đùa cùng bạn bè. Tôi biết những điều đó một cách lặng lẽ, như một thói quen, vì việc quan sát từ xa dễ dàng hơn rất nhiều so với việc thừa nhận rằng mình đang muốn được bước lại gần.
Nói cho cậu biết "tôi thích cậu" là một việc quá lớn. Nó đòi hỏi tôi phải tin rằng mình đủ để được nhìn thẳng, đủ để không bị soi kỹ, đủ để không phải sợ hãi khi ánh sáng rời khỏi tôi. Và tôi thì chưa bao giờ tin vào điều đó.
Đến năm lớp 12, vì trường xếp lại lớp để học sinh tập trung ôn theo ban, thành ra danh sách lớp thay đổi nên tên bọn tôi gần nhau. Thêm vào đó, có vài môn giáo viên yêu cầu làm việc theo nhóm, và tôi với cậu lại chung một nhóm.
Tôi từng nghĩ làm việc chung với cậu sẽ khiến tôi lúng túng, hoặc ít nhất là căng thẳng. Nhưng hóa ra không phải vậy. Cậu không nói nhiều như những thành viên khác, nhưng khi nói lại rất rõ ràng, càng không áp đặt, chưa từng hời hợt dù chỉ là thảo luận lấy điểm cộng.
Có những lúc tôi nói dài dòng, lòng vòng hoặc không thật sự chắc chắn. Tôi đã quen với việc người khác cắt ngang, hay gật đầu cho xong. Nhưng cậu thì không. Cậu chờ tôi nói hết, rồi mới gật đầu. Chỉ vậy đã đủ để tôi nhận ra mình đang được lắng nghe, chứ không phải chỉ được chịu đựng.
Từ những lần làm bài đó, chúng tôi bắt đầu nói chuyện nhiều hơn. Ban đầu chỉ là về bài vở, về hạn nộp, rồi dần dần, những tin nhắn không còn quá gấp gáp. Vẫn ngắn, vẫn đúng trọng tâm, nhưng đủ để tên cậu không còn xa lạ trong đoạn chat bên tôi.
Chúng tôi không có những cuộc trò chuyện kéo dài đến tận khuya hay những câu hỏi riêng tư. Nhưng mỗi lần thấy điện thoại sáng lên, nhìn thấy tên cậu thì tôi đều biết mình sẽ đọc rất kỹ.
Và tôi bắt đầu chờ tin nhắn của cậu.
Không rõ từ lúc nào, tôi quen với việc mỗi tối mở điện thoại ra chỉ để kiểm tra xem cậu có gửi gì không. Nếu không có, tôi tự nhủ chắc cậu bận. Nếu có, tôi cảm thấy có chút hân hoan. Thậm chí, có lần tôi cứ đọc đi đọc lại cuộc trò chuyện vỏn vẹn qua lại đúng bốn dòng đến khi ngủ quên hồi nào chẳng hay.
Tôi không dám gọi đó là thân. Tôi chỉ biết, từ lúc nào đó cậu không còn là một người tôi nhìn từ xa nữa. Cậu đã bước vào một khoảng rất gần, đủ gần để tôi bắt đầu lo sợ, và cũng đủ gần để tôi không thể giả vờ là mình không mong chờ gì thêm.
Trên lớp, có vài lần cậu ngồi gần chỗ tôi để nói chuyện cùng mấy bạn xung quanh. Những lúc như thế, tôi thường cúi đầu giả vờ đọc sách, hoặc lướt điện thoại nhưng thật ra tai tôi không bỏ sót một chữ nào từ miệng cậu. Tôi quen cả nhịp thở, cả cách cậu ngập ngừng trước khi cười. Khi đấy, tôi ngẩng lên xem đồng hồ treo tường, và vô tình chạm phải ánh nhìn của cậu. Tôi không chắc là cậu có nhìn tôi từ trước hay không, chỉ biết là tôi vội quay đi rất nhanh.
Có một hôm trong tiết Thể Dục, thầy gọi theo danh sách lần lượt những bạn tên kế nhau đứng sang một góc để chuẩn bị ném bóng rổ. Chúng tôi đứng cùng hàng. Giữa lúc chờ, cậu quay qua hỏi tôi sao lúc nào cũng im lặng vậy. Câu hỏi rất bình thường, giọng cũng không có ý trêu chọc, nhưng tôi lại không biết trả lời thế nào. Tôi chỉ cười, một nụ cười gọn gàng, đủ lịch sự để kết thúc câu chuyện.
Tôi nghĩ cậu sẽ quên câu hỏi đó nhanh thôi. Nhưng từ hôm đấy, mỗi khi môn nào có bài tập nhỏ, dù không chung nhóm, cậu đều nhắn tin hỏi tôi trước. Có lần ngay trên lớp, cậu cầm vở sang bàn tôi chỉ để hỏi vài kiến thức rất cơ bản. Tôi thừa biết cậu hiểu những điều đó rõ hơn tôi rất nhiều, nhưng cậu vẫn hỏi, vẫn chờ tôi nói xong rồi mới gật đầu như mọi khi.
Tôi còn nhớ có một buổi chiều, vì sáng mai tới phiên tôi trực nhật, do không đi sớm được nên chọn ở lại quét dọn rồi mới về. Lớp học lúc đấy không còn ai, chỉ còn tiếng chổi quét sàn và mùi bụi quen thuộc. Tôi đang cúi người gom rác trong hộc bàn thì nghe có tiếng động ngoài cửa rất nhẹ.
Ngẩng lên, tôi giật mình khi thấy cậu đứng đó. Có lẽ do biểu cảm của tôi quá lộ liễu nên cậu thấy hơi áy náy, gãi đầu rồi cười trừ:
"Xin lỗi đã làm Trà Anh giật mình, tao không cố ý đâu."
Tôi cũng thắc mắc hỏi lại: "Sao mày còn ở đây? Để quên gì à?"
Cậu gật đầu rất nhanh, vừa nói vừa đi về phía bàn học mình:
"Ừ, tao để quên cuốn bài tập nên quay lại lấy. May mà mày vẫn còn trong lớp."
"À." Tôi gật gù, quay lại tiếp tục công việc đang dở, cố tỏ ra tự nhiên như thể tim mình không vừa đập hụt một nhịp.
Quét gần hết dãy tổ một được một lúc, tôi nghe phía sau lưng có tiếng lục đục. Quay lại thì thấy cậu đã cầm một cây chổi khác, đang quét nốt mấy dãy bàn còn lại.
Tôi khó hiểu hỏi cậu: "Ngày mai đã tới bàn mày trực đâu? Sao tự dưng lại quét?"
Cậu không ngoái lại nhìn tôi, cứ chú tâm cầm chổi moi mấy các góc khuất dưới chân bàn, khom lưng, đứng lên khuỵ xuống một hồi mới nói:
"Thì tại rãnh quá nên sẵn quét phụ để mày xong lẹ hơn thôi. Đừng để ý đến tao, cứ quét bên mày đi."
Tôi chưa gặp trường hợp này nên không biết phản ứng ra sao. Tôi đứng im một lúc rồi mới tiếp tục quét, nhưng tay đã chậm hơn trước. Cuối cùng, tôi chỉ lí nhí được ba từ, nhỏ đến mức chính tôi không chắc cậu có nghe thấy hay không:
"Cảm ơn mày."
Quét dọn xong, cậu đeo cặp lên lưng, tay xách bịch rác to tướng đi thẳng ra cửa. Tôi còn chưa kịp nói gì thì cậu đã ngoái lại dặn một câu rất gọn:
"Khóa cửa giùm tao nha. Bịch này sẵn tay nên tao vứt luôn cho. Về cẩn thận."
Rồi cậu đi luôn, không chờ tôi đáp lại.
Tôi đứng yên giữa lớp học trống, trong đầu thoáng hiện lên một ý nghĩ rất mỏng:
"Chẳng lẽ..."
Nhưng tôi lập tức lắc đầu nguầy nguậy như thể có thể dùng động tác đó để xua đi suy nghĩ vừa nảy lên. Tôi sợ. Không phải vì sợ cậu, mà sợ nếu suy nghĩ đó là thật, tôi sẽ không biết phải làm gì tiếp theo. Tôi vốn không giỏi đối diện với những điều có khả năng trở thành sự thật.
Thỉnh thoảng, chúng tôi có những cuộc nói chuyện rất vu vơ. Không dám gọi là thân, chỉ là vô tình đứng cạnh nhau lâu hơn một chút, nói vài câu không đầu không đuôi, rồi ai về chỗ nấy.
Một lần như vậy, cậu hỏi tôi có tính học đại học không. Tôi gật đầu ngay, đáp "Có" nhanh lắm, vì với tôi đó là điều hiển nhiên sẽ đến trong đời.
Cậu trầm ngâm một hồi. Lúc đó, tôi không hiểu vì sao cậu lại im lặng lâu đến vậy. Tôi chỉ đoán cậu đang nghĩ vẩn vơ chuyện gì đấy, giống như tôi vẫn thường làm.
Cậu nghĩ ngợi thêm giây lát mới quay sang nhìn tôi cười:
"Thế thì ngày mày tốt nghiệp, tao sẽ tặng hoa chúc mừng nha."
Tôi cũng cười đáp trả. Cười rất tự nhiên, và gật đầu cảm ơn rất lễ phép. Trong đầu tôi lúc ấy chỉ nghĩ: "Chắc là nói đùa thôi." Đến lúc đó, ai biết chúng tôi còn liên lạc hay không, ai biết cậu có còn nhớ tôi là ai hay không.
Tôi không giữ câu nói đó lại. Tôi để nó trôi qua, giống như cách tôi đã để trôi qua rất nhiều điều khác liên quan đến cậu.
...
Ngày thi cuối cùng của kỳ thi THPTQG đến nhanh hơn tôi nghĩ. Nhanh đến mức tôi chưa kịp chuẩn bị cho cảm giác phải nói lời tạm biệt với nhiều thứ cùng một lúc.
Sáng hôm đấy, tôi làm bài bình thường, không xuất sắc nhưng cũng chẳng tệ. Chỉ là đầu óc tôi không ở trong phòng thi lâu lắm. Tôi cứ nghĩ đến buổi chiều, đến khoảnh khắc mọi thứ sẽ chính thức khép lại. Khép lại một cách rõ ràng, không cho ai cơ hội quay đầu.
Và môn Tiếng Anh thi vào buổi chiều cũng đã kết thúc. Dù trống đã đánh từ lâu, nhưng sân trường vẫn còn đông đúc học sinh nán lại. Những tiếng cười nói, tiếng gọi nhau chụp hình í ới rải rác khắp sân, vì ai cũng vội lưu giữ lại một thứ gì đó trước khi nó kết thúc.
Tôi đứng một mình ở hành lang, nhìn từng nhóm người lần lượt đi qua. Có người ôm nhau rất chặt, có người cười nói rộn ràng, cũng có người chỉ đứng lặng im với đôi mắt đỏ hoe. Nhìn họ, tôi bỗng thấy rõ ràng ai cũng đang mang theo một hành trình sắp sửa khép lại, dù muốn hay không.
Ngay khi thấy cậu bước khỏi phòng thi, tôi đã không do dự gọi tên cậu:
"Xuân Bách."
Giọng tôi nhỏ hơn tôi tưởng, nhưng may là cậu vẫn nghe thấy. Cậu vội nhét đống giấy nháp vào cặp, lật đật đi lại chỗ tôi đứng.
"Tao thấy phòng mày ra nãy giờ mà mày vẫn chưa về à?"
Tôi thành thật trả lời theo suy nghĩ:
"Vì tao đợi mày đấy. Mày có bận việc gì không? Cho tao một chút thời gian được không?"
Vẻ mặt cậu có hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn nhanh chóng gật đầu rồi đi theo tôi. Chúng tôi đứng dưới góc cây phượng quen thuộc trước nhà đa năng. Không có nhạc nền, cũng chẳng có ai làm chứng. Tôi chỉ cảm nhận được gió thổi rất nhẹ, làm vài chiếc lá trên cành rơi xuống chân chúng tôi, rất đúng lúc, rất vô tình.
Tôi đứng đối diện cậu, nhưng lại không dám nhìn thẳng. Hai bàn tay tôi cứ cuộn lại rồi thả ra liên tục. Trong đầu tôi hoàn toàn trống rỗng, không có kịch bản, không có câu chữ trau chuốt nào như tôi vẫn thường chuẩn bị cho mọi chuyện. Chỉ có một ý nghĩ duy nhất lặp đi lặp lại: nếu không nói bây giờ, tôi sẽ không bao giờ nói được nữa.
"Thi xong rồi ha mày." Tôi mở miệng trước, một câu vô nghĩa đến buồn cười.
Cậu gật nhẹ: "Ừ. Cuối cùng cũng xong thật rồi."
Giọng cậu vẫn bình thản như mọi ngày. Còn tôi thấy mọi thứ đang chao đi, giống kiểu đứng trên mép bậc thềm mà không biết mình sẽ bước lên hay trượt xuống.
Tôi hít một hơi thật sâu. Lúc ngẩng lên nhìn cậu, tôi mới nhận ra ánh mắt mình run đến mức nào.
"Xuân Bách," tôi gọi tên cậu một lần nữa. "Có một chuyện... tao nghĩ tao nên nói trước khi tụi mình rẽ sang con đường khác."
Cậu không thúc tôi, cũng không còn cười nữa. Chỉ đứng đó, lắng nghe rất nghiêm túc như cách cậu vẫn làm mỗi lần thảo luận nhóm. Và chính điều đó làm tôi đau hơn tôi tưởng.
"Tao..." cổ họng tôi khô lại. "Tao thích mày."
Nói ra rồi, tôi mới biết một câu có thể làm người ta yếu đi nhanh đến vậy.
"Tao thích mày từ lâu rồi. Lâu đến mức tao đã quen với việc chỉ đứng nhìn, quen với việc giữ khoảng cách, quen với việc giả vờ như không có gì hết." Tôi nói rất chậm vì sợ mình cắn trúng lưỡi. "Tao không dám mong đợi gì hết. Tao chỉ... không muốn mang theo câu chuyện này mà rời khỏi nơi này."
Dứt lời, tôi lập tức cúi đầu vì không dám nhìn phản ứng của cậu. Tôi sợ nếu thấy cậu lúng túng, áy náy, hay thương hại thì tôi sẽ hối hận vì đã mở miệng.
Một lúc lâu sau, tôi mới nghe thấy giọng cậu.
"Trà Anh."
Cậu gọi tên tôi, nhỏ thôi, nhưng làm tôi phải ngẩng lên.
"Cảm ơn vì mày đã nói ra. Cảm ơn vì Trà Anh đã thích tao." Cậu nói rõ từng chữ như sợ tôi hiểu sai ý. "Nhưng xin lỗi, tao không thể."
Cậu từ chối tôi. Giọng không bối rối, cũng chẳng lạnh lùng. Chỉ đơn giản là một câu hoàn chỉnh, đứng vững vàng giống như nó vốn dĩ nên được nói ra từ lâu rồi, chỉ là bây giờ mới có người hỏi đúng lúc.
Tôi gật đầu ngay.
Đừng bảo tôi mạnh mẽ, chỉ là do tôi đã chuẩn bị cho việc này từ rất lâu, từ hơn hai năm trước rồi. Tôi luôn biết khả năng này sẽ xảy ra. Tôi chỉ không ngờ khi nó thật sự đến, tim mình vẫn đau theo một cách khác, không giống bất kỳ lần tưởng tượng nào.
Tôi ngẩng lên nhìn cậu thêm một lần nữa, như để xác nhận điều gì đó cho xong. Và chính lúc đó, tôi bắt gặp ánh mắt cậu. Không phải áy náy, không phải né tránh. Là một nỗi buồn rất mỏng, rất sâu, nằm yên trong mắt cậu như thể cậu vừa đánh mất thứ gì đó, dù là người nói lời từ chối.
Tôi cố tình hiểu sai cũng không được. Nhưng tôi không dám hỏi lại, vì không muốn kéo dài thêm tình huống vốn đã có kết cục rõ ràng.
"Không sao đâu." Tôi thấy giọng mình lạ thật. Tôi chỉ tay về phía nhà xe bên phải. "Vậy tao về trước đây. Mày chạy xe cẩn thận."
Câu nói bật ra rất tròn, rất đúng mực. Nó giống một câu kết mà người lớn hay dùng để đóng lại những câu chuyện không nên mở tiếp.
Không đợi nghe câu trả lời từ cậu, tôi đã vội quay lưng bước đi. Càng bước đi, tôi càng nhận ra mình giống chạy nước rút hơn là đi bộ bình thường. Nhưng tôi vẫn cố tăng tốc hơn nữa, vì tôi sợ nếu đi chậm lại, tôi sẽ bắt đầu tự hỏi liệu cậu có đang đứng nhìn theo tôi hay không. Và tôi không muốn biết câu trả lời cho câu hỏi đó.
***
Những ngày sau đó, tôi bận rộn kinh khủng. Bận với những bữa tiệc chúc mừng của gia đình, với những lời dặn dò lặp đi lặp lại, với đủ loại giấy tờ cần phải chuẩn bị để cho kế hoạch lên thành phố nhập học đã được vạch sẵn từ trước.
Tôi tin rằng mọi chuyện đã kết thúc. Và tôi sống như thể nó đã thật sự kết thúc.
Bốn năm trôi qua nhanh hơn tôi tưởng rất nhiều. Thành phố cuốn tôi đi bằng nhịp sống vội vã của nó. Tôi học, đi làm thêm, quen những người bạn mới, tìm chỗ thực tập, lo những thứ rất cụ thể cho tương lai. Mỗi ngày đều có việc phải làm, mỗi giai đoạn đều có mục tiêu cần đạt tới. Cuộc sống mới của tôi không chừa ra một khoảng trống nào để yên để tôi ngồi lại và ngoảnh nhìn về sau.
Tôi không còn nghĩ về cậu ấy nữa. Ít nhất là tôi đã tin như vậy. Chúng tôi gần như cắt đứt liên lạc một cách âm thầm: không cãi vã, không một lời chào tạm biệt, cũng chẳng có lý do rõ ràng nào để phải nói thêm. Tin nhắn thưa dần rồi dừng hẳn, những cái tên quen thuộc lặng lẽ trôi xuống dưới danh sách trò chuyện.
Tôi không có nhiều bạn bè cũ. Sau khi thi xong đại học, tôi rời khỏi nhóm lớp lúc nào chẳng rõ. Mọi thứ diễn ra rất bình thản và êm đềm. Êm đến nỗi tôi không chắc đó là lựa chọn, hay chỉ là hệ quả tự nhiên của việc mỗi người bắt đầu sống một cuộc đời khác.
...
Hôm tôi tốt nghiệp đại học là một ngày nắng rất đẹp. Nắng không gay gắt, vừa đủ sáng, rất tròn vai để người ta tin rằng đây là một ngày đáng nhớ. Tôi mặc áo cử nhân, đứng chụp hình cùng gia đình và bạn bè, tôi cảm giác mình cười nhiều bằng cả hai mươi hai năm cộng lại.
Giữa lúc đó, có người gọi tên tôi:
"Trà Anh."
Tôi quay lại, thấy một cậu bạn đứng cách đó vài bước, trên tay có cầm một bó hoa. Tôi nhìn cậu vài giây, cố lục lọi trí nhớ xem mình đã gặp ở đâu chưa. Phải đến khi cậu tự giới thiệu mình là Hoàng Trọng, học cùng lớp hồi cấp ba với tôi, tôi mới mơ hồ ngộ ra, theo kiểu nhớ được là có người như vậy, chứ không gắng với bất kỳ kỷ niệm nào cụ thể.
"Chúc mừng Trà Anh đã tốt nghiệp."
"Cảm ơn nha."
Tôi nhận bó hoa từ tay cậu, trong lòng có chút lúng túng. Hoa cẩm chướng. Tôi không hiểu vì sao lại là cẩm chướng, nhưng cũng không hỏi. Nói chuyện thêm vài câu xã giao, tôi mới biết Trọng không sống ở thành phố. Cậu nói hôm kia thấy tôi đăng tin chuẩn bị tốt nghiệp nên đặt vé lên đây để tặng hoa rồi về.
Nghe đến đó, trong đầu tôi tự nhiên bật lên rất nhiều câu hỏi, chen nhau đến nỗi tôi phải cố giữ cho nét mặt mình đừng thay đổi. Nhưng tôi không hỏi lại gì cả, chỉ mời Trọng một bữa cơm, coi như lời cảm ơn và cho sự xuất hiện hơi đường đột này. Trọng gật đầu đồng ý.
Tuy học cùng lớp, nhưng khi ngồi ăn với nhau, chúng tôi chẳng có nhiều chuyện để nói. Chỉ là nhắc lại vài chuyện cũ rất an toàn, như mấy buổi lễ 20/11 ngày trước, những lần bị gọi tên lên bảng, hoặc nói qua loa về dự định sắp tới.
Rồi tôi vô tình hỏi như một phản xạ, rằng dạo này Xuân Bách thế nào. Có lẽ vì Trọng vừa kể mình là bạn thân gần nhà của cậu ấy từ cấp hai.
Trọng im lặng. Tôi thấy sự chần chừ hiện rõ trên gương mặt cậu ấy. Tôi nhìn thấy miệng cậu ấy mấp máy mấy lần, hình như đang lưỡng lự cân từng chữ rất kỹ. Khoảng lặng đó kéo dài hơn tôi nghĩ. Đủ lâu để tôi bắt đầu thấy bất an, nhưng vẫn chưa đủ để tôi hiểu rằng mình sắp nghe một điều không thể rút lại.
Mãi đến khi tôi có chút sốt ruột, vừa định hỏi lại thì Hoàng Trọng lên tiếng:
"Thằng Bách mất rồi."
Tôi nghe được câu trả lời, rõ ràng từng chữ một. Nhưng phải mấy giây sau tôi mới hiểu được nghĩa của nó đang đi tới đâu. Tôi hỏi lại rất ngớ ngẩn, cứ như chỉ cần hỏi thêm lần nữa thì sẽ cho ra câu trả lời khác.
"Mất... là sao?"
"Từ hai năm trước," Trọng ngập ngừng. "Do bệnh bẩm sinh. Dù điều trị đều nhưng bác sĩ không dám chắc."
Tôi chết lặng. Nhưng tôi vẫn chưa thấy đau ngay. Tôi chỉ nhận ra có một khoảng trống rất lạ mở ra trong lòng mình, nơi mà trước đó tôi chưa từng nghĩ sẽ có gì tồn tại. Hai năm trước. Hóa ra là từng đấy thời gian. Hóa ra trong lúc tôi đang sống một cuộc đời khác, đang học, đang quên, đang tin rằng mọi chuyện đã xong thì có một người đã lặng lẽ rời khỏi thế giới này mà tôi hoàn toàn không hay biết.
Hoàng Trọng kể rằng trong khoảng thời gian nằm viện, Xuân Bách đã nhắc đến tôi rất nhiều lần. Rằng cậu ấy thích tôi. Rằng cậu ấy biết tôi thích cậu. Rằng cậu ấy đã từ chối vì không dám kéo tôi vào một tương lai không chắc chắn. Rằng không ít lần cậu bảo nếu còn sống, cậu sẽ thi đại học. Muốn vào cùng trường với tôi. Muốn một lần đứng dưới sân trường, nhìn tôi mặc áo tốt nghiệp rồi tự tay đưa tôi bó hoa cẩm chướng này.
Tôi không nhớ mình đã nghe được bao nhiêu trong số những lời đó. Tôi chỉ biết từ một lúc nào đó, tai tôi đã không còn nghe rõ nữa. Vì trong đầu tôi cứ lặp đi lặp lại một câu nói rất cũ:
"Thế thì ngày mày tốt nghiệp, tao sẽ tặng hoa chúc mừng nha."
Tôi không nhận ra là mình đang khóc. Chỉ đến khi Hoàng Trọng hốt hoảng hỏi tôi có sao không, tôi mới thấy tay mình ướt. Tôi để mặc cho nước mắt cứ thế rơi xuống như thể tôi biết cơ thể đã tự quyết định thay tôi.
Tôi ôm bó hoa vào lòng, chỉ dám nâng niu thật khẽ chứ chẳng dám siết mạnh. Lần đầu tiên trong đời, tôi ước giá như mình chưa từng được tặng hoa. Ước gì ngày ấy tôi đừng cười cho qua. Ước gì tôi đã tin lời cậu nói thêm một lần nữa, thay vì gạt nó đi như một câu xã giao vô hại.
Bó cẩm chướng trong tay tôi rất nhẹ. Nhẹ đến mức tôi thấy nó nặng hơn bất kỳ lời từ chối nào tôi từng nhận.
Tôi tốt nghiệp rồi. Hoa cũng có rồi. Chỉ là người hứa tặng tôi hoa... đã không còn ở đây để nhìn tôi nhận lấy.
Và đến lúc đó, tôi mới hiểu ra vì sao mình đã khóc. Không chỉ vì nghe tin cậu đã chết, mà vì có một phần tình cảm trong tôi đã bị từ chối từ bốn năm trước, mãi đến hôm nay mới được phép đau trọn vẹn.
***
Tôi kết hôn vào một ngày trời rất trong. Trong đến mức, tôi không tìm được lý do gì để bảo rằng đó là điềm gỡ. Gia đình hai bên đều rất vui vẻ, vài người còn bảo trông tôi dịu dàng hơn trước rất nhiều. Tôi nghĩ có lẽ vì tôi đã không còn chống cự. Tôi cũng mỉm cười, gật đầu, làm tròn vai của một người sắp bước sang một đời khác.
Vì thời điểm trước, khi nghe gia đình bàn đến chuyện kết hôn, dù đã bỏ ngoài tai nhưng chính tôi cũng tự biết nếu cứ tiếp tục chờ đợi một cảm giác mà có lẽ sẽ không bao giờ quay lại, thì tôi sẽ còn mệt mỏi hơn bây giờ rất nhiều.
Đương nhiên, tôi đã nhiều lần nói mình không còn thiết tha gì với tình yêu nữa. Nói nhiều đến nỗi chính tôi cũng bắt đầu tin điều đó là thật. Khi gia đình gần như thúc giục tôi hãy có câu trả lời cho người họ chọn lần này, tôi cũng thành thật thú nhận rằng tôi không chắc cuộc hôn nhân này sẽ kéo dài được bao lâu.
Gia đình nghe xong cũng không trách gì tôi. Họ chỉ bảo hôn nhân vốn đâu cần phải bắt đầu từ tình yêu dữ dội, chỉ cần hai người biết sống tử tế với nhau là được.
Tôi nghĩ vậy cũng đúng, vì ít nhất... nó rất hợp lý. Mà những điều hợp lý thì thường dễ được chấp nhận.
Nên khi tôi đứng trong bộ váy trắng rất đẹp, được những đứa trẻ khen "xinh như công chúa", nghe khách khứa rót vào tai những lời chúc phúc không ngớt, trong đầu tôi cứ lặp đi lặp lại một ý nghĩ rất lạ:
"Nếu hôm nay không phải là ngày cưới, thì đây hẳn chỉ là một buổi tiễn đưa khác trong đời mình mà thôi."
...
Sau khi kết hôn một thời gian, tôi đồng ý tham gia buổi họp lớp vào một dịp cuối năm. Buổi gặp mặt ít người hơn tôi tưởng. Có lẽ vì ai cũng bận rộn với cuộc sống riêng của mình, hoặc đơn giản là không còn đủ thân để ngồi lại với nhau.
Chúng tôi chọn một quán bình thường, không khí cũng bình thường. Tới lúc ổn định chỗ ngồi, tôi mới nhận ra là Hoàng Trọng cũng có mặt. Không bất ngờ lắm vì dù sao bọn tôi cũng từng học chung lớp. Chỉ là đã lâu rồi tôi không còn nghĩ đến việc sẽ gặp lại cậu ấy trong một hoàn cảnh như thế này.
Chúng tôi chào nhau, hỏi thăm xã giao những câu quen thuộc được lặp lại theo một trật tự dễ đoán: dạo này làm gì, sống ở đâu, đã lập gia đình chưa. Có người để ý nhẫn cưới trên tay tôi thì chúc mừng. Tôi cũng chỉ cười lịch sự để cảm ơn. Ai hỏi gì tôi cũng sẽ đáp lại vừa đủ, riêng việc mời rượu mời bia tôi sẽ thẳng thừng từ chối.
Đã ngồi xuống rồi thì không thể đứng dậy liền được. Tôi ở lại cho đến khi buổi gặp mặt trôi qua một nửa mới viện cớ xin về trước vì có việc. Sự thật là tôi không muốn ngồi thêm một phút nào nữa, vì tôi sợ nếu ở lại lâu hơn... tôi sẽ bắt đầu so sánh. Mà so sánh thì nguy hiểm lắm, nó khiến người ta nhận ra những thứ mình đã cố tình không nhìn vào.
Ra tới cửa quán, tôi mới biết trời bên ngoài đang mưa rất to. Mưa đổ thẳng xuống mặt đường, dày và nặng, như kiểu đã quyết tâm không dừng lại trong vài tiếng nữa. Tôi đứng nép dưới mái hiên, nhìn nước mưa loang loáng dưới ánh đèn vàng, trong lòng bỗng dậy lên một cảm giác bứt rứt rất vô cớ.
Tôi nhắn tin cho chồng, bảo anh đến đón. Trong lúc chờ, tôi vẫn đứng yên tại đó, nghe mưa rơi, và tự hỏi tại sao mình lại thấy khó chịu đến vậy.
Rồi Hoàng Trọng đi ra.
Tôi không biết từ lúc nào cậu đã đứng dậy rời khỏi bàn. Chỉ là khi tôi nghe tiếng động thì quay sang, đã thấy cậu đứng cách tôi cỡ một sải tay, hỏi tôi sao chưa về.
Hoàng Trọng đề nghị chở tôi về vì mưa to thế này rất khó đặt xe công nghệ. Tôi lắc đầu từ chối, bảo chồng mình đang trên đường tới. Trọng gật đầu. Không nói gì thêm, chỉ đứng cách tôi thêm vài bước chân rồi rút điếu thuốc ra hút.
Chúng tôi cùng nhìn mưa, không ai nói câu nào một lúc lâu. Rồi, vẫn là Hoàng Trọng mở lời trước:
"Lâu rồi tụi mình không nói chuyện như vậy ha?"
Tôi chỉ gật đầu mà chẳng cần biết Trọng có thấy hay không. Một phần vì tôi không biết phải trả lời thế nào cho đúng, phần khác vì tôi chợt nghĩ ra rằng thật ra chúng tôi chưa từng nói chuyện "như vậy" bao giờ. Hồi cấp ba cũng không có. Lần gần nhất, nếu có thể gọi là nói chuyện thì cũng chỉ là buổi chiều hôm tôi tốt nghiệp vài năm về trước.
Có lẽ trong người có chút men, Trọng bắt đầu kể lại chuyện cũ. Vì đã đứng khá gần nên tôi không tiện tránh đi, đành nghe vậy. Nhưng càng nghe cậu nói, tôi càng nhận ra mình đã đánh giá thấp sức nặng của những điều chưa từng được nói ra. Có những câu chuyện chẳng cần được kể bằng giọng bi thương, chỉ cần được nói đúng lúc là đã đủ làm rạn nứt những gì người ta tưởng mình đã xây dựng xong xuôi từ lâu.
Hoàng Trọng nói về bó hoa ngày tôi tốt nghiệp, nói lúc đứng trước cổng trường đã phân vân rất lâu, vì sợ tôi không nhận đồ từ một người gần như xa lạ. Nói đến đó, Trọng im một chút như đang cân nhắc xem có nên nói tiếp hay không. Rồi cậu kể rằng vài ngày sau hôm ấy, cậu có lái xe về quê thăm mộ một người bạn đã mất của mình.
Đến đây tôi buộc miệng hỏi mà không cần suy nghĩ:
"Là Xuân Bách phải không?"
"Ừ."
Trọng kể mình ngồi dựa vào mộ rất lâu. Kể cho Bách nghe về chuyện của tôi, rằng tôi vẫn còn thích Bách nhiều lắm. Rằng Bách tệ thật. Tệ vì đã làm tôi khóc ngay trước mặt một người xa lạ như cậu.
Tôi không biết mình nên phản ứng thế nào. Cũng không chắc mình có đủ sức để phản ứng hay không.
Một lúc sau, Trọng nói rằng cậu từng thích tôi. Thích từ hồi còn đi học.
Theo phản xạ, tôi quay phắt sang nhìn cậu. Ánh mắt tôi chắc hẳn đã lộ liễu đến mức Trọng chỉ cười trừ, rồi lại quay ra nhìn cơn mưa trước mặt. Trọng lại tiếp tục kể, cậu nói vì biết Bách bệnh nặng, biết mạng sống của bạn mình còn chẳng nắm chắc trong tay nên cậu không dám tiến tới. Cậu sợ nếu mình nói ra thì chẳng khác nào giật lấy một điều gì đó cuối cùng của người sắp mất.
Trọng nói cậu ấn tưởng với tôi là vào ngày Tổng Kết năm lớp 10, khi tôi được gọi lên bục để nhận thưởng vì thành tích Học sinh Giỏi như bao người. Trọng kể khi nhập học năm lớp 11, cậu đã luôn quan sát tôi từ xa và ngờ ngợi nhận ra tôi đã thích thầm Xuân Bách. Nói tới đây, Trọng cười.
Tôi không biết phải gọi nụ cười đó là gì. Chỉ thấy trong đó không hẳn là buồn, cũng không phải tiếc, nó giống như một thứ đã ở lại rất lâu, đến lúc được nói ra thì chẳng còn cách nào đặt lại cho vừa.
Trọng dập tàn thuốc xuống nền gạch ướt.
"Vậy à?" Vốn từ bây giờ của tôi chỉ còn lại hai chữ đấy.
Hoàng Trọng gật đầu.
Cuộc trò chuyện của bọn tôi kết thúc ngay tại đấy vì chồng tôi đã tới. Khi thấy ánh đèn xe rọi qua màn mưa, không hiểu sao tôi lại thấy nhẹ nhõm lạ thường. Chồng tôi che dù bước về phía tôi. Tôi giới thiệu ngắn gọn rằng đây là Hoàng Trọng, bạn học cũ trước kia. Hai người họ gật đầu chào nhau, lịch sự và đủ xa.
Trên đường về, tôi cứ chăm chú nhìn những giọt nước mưa trải dài trên cửa kính. Chúng chảy song song, không nhập vào nhau, cũng không tách hẳn ra được. Tôi chợt nghĩ, có lẽ đó là hình dạng thật sự của những mối tình không thành.
Chồng tôi thấy tôi cứ nhìn mãi ra ngoài thì hỏi:
"Buổi gặp mặt của em thế nào?"
Tôi quay sang nhìn anh rồi cười cho có lệ:
"Cũng bình thường thôi."
Đáng lẽ câu chuyện nên dừng ở đó. Nhưng không hiểu vì sao, tôi lại nói tiếp, giọng nhỏ đi một chút, như nói với chính mình hơn là với anh:
"Nếu không đến có lẽ sẽ tốt hơn..."
...
Vào một đêm mưa giông, tôi ra khỏi phòng để uống nước thì bất ngờ thấy nước mắt mình rơi xuống. Không có dấu hiệu nào báo trước, cũng không có lý do rõ ràng. Tôi đứng yên một lúc, hơi ngạc nhiên rồi cũng mặc kệ.
Trong vô thức tôi lại nghĩ về người đã mất, về bó hoa cẩm chướng được tặng từ nhiều năm trước, về lời hứa tưởng như chỉ nói cho vui.
Tôi đứng trong bếp, tay vẫn cầm ly nước chưa uống, và chợt nhận ra vì sao tôi chưa bao giờ dám đón lấy tình yêu một cách nhẹ nhàng. Nói tôi yếu cũng được, nhưng có lẽ vì tôi biết rõ mình thuộc kiểu người nếu yêu rồi thì khi mất đi sẽ không bao giờ nguôi được.
Vậy nên tôi chọn sống theo cách an toàn hơn. Sống một đời không cần phải chịu tang cho ai nữa. Chỉ đôi khi, trong những đêm mưa như thế này, tôi vẫn không tránh được việc tự hỏi: rốt cuộc người đã chết mang theo tình yêu ấy đi rồi, hay thật ra người còn sống mới là kẻ bị chôn vùi lâu nhất?
Hết.
20/12/2025.



Bình luận
Chưa có bình luận