Một tiếng nổ mạnh đưa hắn vào vòng lặp tử vong của Thần Chết hết lần này đến lần khác, cho tới khi mở mắt lần nữa, cái chết mở ra một cuộc sống mới.
Khói thuốc len lỏi trong khu công trường bẩn thỉu, xung quanh chất đầy xi măng cùng vữa khô khiến cho không khí bốc lên mùi vật liệu gay mũi. Bên trong khu căn hộ đang xây dựng dang dở, bụi mịn bay mù mịt khắp nơi. Mùi thuốc lá bay theo hướng gió tới chỗ Ben, cánh mũi anh hơi phập phồng, cơn thèm thuốc đột ngột bị khơi lên.
Ben chống xẻng, để nó ghim chặt vào đống vữa anh đang trộn, quyết định đi ra ngoài hút một điếu thuốc.
Châm vội điếu thuốc nhăn nhúm vừa rút ra từ trong túi áo, Ben rít một hơi thật sâu. Cột khói thuốc dày đặc phả ra từ miệng anh, lớp khói trắng đục quanh quẩn bay trên đầu, đảo qua đảo lại như một bóng ma rồi từ từ tan biến vào không khí. Ngày hôm nay mây đen nặng trĩu kéo theo từng chùm mưa bụi dày đặc, bầu trời u ám khiến cho mùa đông ở Angelless thêm phần lạnh lẽo. Ben không nghiện thuốc lá, nhưng hút thuốc khiến cho đầu óc anh tê dại, lâng lâng như thoát ly khỏi thực tại. Anh luôn muốn làm một điếu mỗi khi tâm trạng trở nên nặng nề.
Tòa nhà đã sắp hoàn thiện, công việc ở đây không còn nhiều, chẳng mấy chốc anh sẽ lại thất nghiệp.
“Ben, sắp đến giờ nghỉ của cậu rồi. Cậu trộn nốt vữa rồi cho vào máy, dọn dẹp xong có thể về.” Neo là một trong những thợ vận hành máy móc ở đây, tính cách rộng lượng lại tốt bụng, rảnh rỗi anh ta sẽ hướng dẫn Ben cách sử dụng những loại máy móc hiện đại này.
“Tôi hiểu rồi.”
Ben đã làm công nhân chui trong những công trường trên thành phố này từ rất lâu. Từ khi anh còn là một thằng nhóc mười tám gầy gò cho tới hiện tại, thời gian đã mài giũa nên một người đàn ông rắn rỏi. Thời gian trôi đi không chỉ có con người thay đổi. Hiện tại máy móc đang trên đà phát triển vượt bậc, có lẽ chỉ cần thêm vài năm nữa thôi, những công việc vặt vãnh của một công nhân làm chui như Ben cũng sẽ được robot thay thế.
Anh thu dọn xong phần việc của mình rồi xuống tầng ra về, mặc kệ mưa lạnh làm cho da đầu tê dại. Hiện tại trong đầu Ben chỉ có một suy nghĩ, làm sao để tìm một công việc mới. Tháng 11 ở Angelless quá đỗi khắc nghiệt, dù chưa có bông tuyết nào rơi nhưng cái lạnh thấu xương cùng bầu không khí ẩm ướt làm cho con người ta trở nên biếng nhác, chỉ muốn ở yên trong nhà.
Mới sáu giờ chiều, trời còn sáng sủa nhưng trên đại lộ đã không còn một bóng người. Bóng dáng anh lầm lũi xuyên qua lớp mưa bụi trông như lạc vào thế giới sương mù, tầng mưa dày nặng hạt dần dần nuốt trọn bóng lưng cô độc.
Nơi này là một thành phố biển, Ben chuyển tới đây làm việc đã được hơn sáu tháng. Vốn dĩ anh có thể tìm một công việc tốt hơn ở bến cảng, nhưng vì không quen biết ai ở đó nên muốn có một công việc khác quả thực rất khó khăn.
Đi dọc đại lộ hơn hai cây số, không chỉ các quán ăn cao cấp đều đóng kín cửa mà đến cả những quán bình dân cũng treo biển không tiếp khách. Ben bỗng nhớ ra hôm nay đã là chủ nhật, là ngày nghỉ. Nơi này không có nhiều khách du lịch, chỉ có đông đảo thương nhân và một lượng lớn những kẻ làm thuê như anh.
Tối nay Ben đành ăn bánh mì ở tiệm bánh gần chỗ ở, nơi đó không bao giờ đóng cửa nhưng cũng chẳng có nhiều khách ghé qua. Bánh mì ở đó quá khô cứng, sẽ là lựa chọn cuối cùng để no bụng.
Mua xong bữa tối, anh đi tới trước một biển báo cấm đỗ xe, ngay cạnh đó là một cái ngõ nhỏ. Xuyên qua con ngõ nhỏ được tạo bởi hai dãy nhà cũ kỹ, một bên là nhà trọ bên còn lại là khu căn hộ chẳng biết có vị khách thuê nào hay không. Hai bên tường nổi từng mảng mốc đen trắng tróc cả xi măng, rêu xanh mọc rải rác dưới nền đất lan lên tường, tạo nên một bức tranh in tường kỳ dị. Sâu trong thành phố biển tưởng chừng yên bình xinh đẹp, chẳng ai ngờ là đầy rẫy những dãy nhà tạm bằng bìa xốp cùng lều trại, nằm la liệt những kẻ không nhà, nghiện ngập và bệnh tật.
Ben đã sống trong những khu ổ chuột như thế từ năm lên sáu, anh không tài nào nhớ nổi cảm giác ấm áp dưới một mái nhà lợp gỗ là như thế nào, có lẽ khoảng thời gian nào đó trước khi mất đi gia đình, anh đã được sống trong một ngôi nhà khang trang. Có một ngôi nhà là mơ ước duy nhất của Ben, cũng là mục tiêu của anh từ khi một mình trang trải cho tới giờ.
Ben nhạy bén với cảm xúc của con người, hoặc có lẽ là do sống chui lủi như chuột từ sớm, nên anh buộc phải học được cách quan sát sự thay đổi cảm xúc của người khác nhanh hơn bất kỳ kỹ năng nào khác. Những ngày bé còn lang thang trên phố, Ben dành nhiều thời gian để ngồi một góc nhìn những căn nhà san sát nhau với bãi cỏ xanh mướt và mái ngói đầy màu sắc. Sau mỗi cánh cửa có rất nhiều con người khác nhau. Con người ta thường có rất nhiều trạng thái khi bước ra khỏi nhà và trở về nhà. Có người vội vã đánh rơi chìa khóa, có người vui vẻ ôm một túi đồ ăn, cũng có người đập cửa giận dữ bỏ ra ngoài. Ben luôn cảm thấy những trạng thái đó thật kỳ diệu, khi có nhà, anh cũng muốn có được những cảm giác đó.
Anh đi tới một góc khuất nằm sâu trong khu ổ chuột, lều trại và một ít dụng cụ sinh hoạt của anh được cất ở đây. Lúc mới đặt chân tới đây Ben đã quen được một gia đình hàng xóm khá thân thiện. Họ sống thành phố này từ nhiều năm trước, nơi này là địa bàn của họ. Tháng nào Ben cũng sẽ đưa cho họ một ít tiền để trông đồ khi anh ra ngoài đi làm.
Một mùa đông nữa lại tới, những lúc như vậy ước mơ có một căn nhà của Ben lại bùng lên trong tâm trí, nhắc nhở anh trong mỗi giấc mơ. Làm công nhân chui bôn ba khắp các thành phố trong bang đã được hơn mười năm, tiền dành dụm của anh đủ để mua một căn nhà nhỏ ở ngoại ô thành phố Sandi - quê nhà của anh. Vấn đề là Ben chưa có giấy tờ tùy thân để đứng tên căn nhà, cũng không có một công việc lâu dài để có lại thu nhập sau khi đã bỏ ra một khoản tiền lớn.
Trước khi trở thành một người vô gia cư, Ben là đứa trẻ có một gia đình khá giả và hạnh phúc. Nhưng ký ức của một đứa trẻ lại như những thước phim đen trắng mơ hồ, rời rạc và ngắn hạn. Từ sau khi cha mẹ qua đời trong một đám cháy lớn, những gì anh nhớ chỉ còn là mùi khét khi da thịt bị ngọn lửa thiêu đốt, cùng tiếng la hét trong rừng hoa đỏ nóng rực chói mắt. Sau đó Ben lưu lạc giữa dòng người ở Sandi, một siêu đô thị phồn hoa trên bề mặt, nơi ranh giới giữa giàu có và nghèo khổ được phân chia rõ rệt.
Dựng xong lều, Ben thắp ngọn đèn dầu rồi treo nó lên chiếc móc ở đỉnh lều. Khói đèn lững lờ bay lên qua những khe hở trên chóp, chưa kịp thoát ra ngoài đã bị những hạt mưa li ti đánh tan. Lều của Ben làm bằng nilon, mùa hè mát mẻ còn có thể tránh muỗi, nhưng đến mùa đông, mưa tuyết sẽ ngấm vào lều khiến cho độ ấm bên trong không khác gì ngủ ngoài trời tuyết. Vì thế, anh dành dụm mua một tấm chăn bông và bọc kín bốn mặt lều từ bên trong, giữ lại chút hơi ấm cho những đêm nghỉ. Tấm chăn bông có lẽ là thứ quý giá nhất Ben từng mua. Nếu không có nó, có lẽ anh đã hóa thành người tuyết chỉ sau một đêm.
Trời đã tối dần, không khí xung quanh càng lúc càng lạnh giá.
Bên trong lều, ánh lửa vàng óng le lói từ đèn dầu chẳng làm cho nhiệt độ ấm hơn. Ben thay bộ quần áo bụi bặm ra, gấp gọn rồi đặt vào cái xô nhôm duy nhất mà anh có sau đó liền ngồi xuống gặm bánh mì. Trong chiếc phích cầm tay còn có một ít nước nóng chiều nay anh vừa xin từ chỗ làm. Ben đổ một gói cà phê nhỏ vào phích, một bữa tối no bụng đã hoàn thành.
Nắp phích vừa mở ra, hương vị cà phê rẻ tiền lập tức liền xộc lên mũi, đánh bay mỏi mệt cả ngày hôm nay của anh. Ăn uống xong xuôi Ben móc ra một xấp tiền được giấu sâu trong quần đùi, đếm đi đếm lại cẩn thận ba lần. Ben có ba cái quần đùi thay hàng ngày, mặt bên trong cái nào cũng có khâu thêm một túi nhỏ để cất tiền. Đây là cách mà lão Nell dạy anh, dù có đi đâu cũng phải mang tiền theo, kể cả có để mất đồ đạc thì tiền vẫn phải còn trong người.
Lão Nell đã tiêu hao nửa đời người trên những góc đường không tên trên khắp thành phố. Đó là một ông lão da màu với mái tóc đen pha bạc xoăn tít, ngắn cũn, cả người gầy còm nhưng sống lưng lúc nào cũng thẳng tắp. Trông Nell cực kỳ đứng đắn trái ngược với nghề móc túi của lão. Người trong khu ổ chuột bảo rằng lão từng là một luật sư, luật sư là người đòi lại lý lẽ cho người tốt. Nhưng lão đã bỏ nghề khi không đòi lại được công bằng cho chính mình.
Lão dạy Ben rất nhiều thứ, kể cả những món nghề kiếm ăn bằng tay trái quý giá, lão đều dạy hết cho anh. Ben gặp lão Nell vào năm bảy tuổi khi đang bới rác ở sau một đại lộ. Đứng trước ánh mắt nghiền ngẫm già đời của một ông già gầy rộc, chiếc áo trên người ông ta còn rách rưới hơn cả của Ben. Cậu bé Ben khi đó chỉ biết quay đầu bỏ chạy. Lúc đó anh đã nghĩ rằng ông lão định giành chiếc bánh kẹp mà anh khó khăn lắm mới tìm thấy trên tay. Không ngờ ngày hôm sau Ben gặp lại lão trong khu ổ chuột anh đang sống, lão đến trước bốn tấm xốp lộn xộn Ben đang nằm, chia cho anh một gói bánh quy vẫn còn hạn. Hương cam trộn vani ngọt ngào quấn quýt theo anh suốt những ngày tháng bươn trải khổ cực trên đường phố. Chỉ cần nhìn thấy lão Nell vẫy tay gọi anh từ xa, mùi hương đó lại từ đâu bay tới, phảng phất nơi đầu mũi. Hay tới tận bây giờ, dù chỉ còn trong ký ức, anh vẫn có thể tưởng tượng ra mùi thơm ngon ngọt của vụn bánh mỗi khi nhớ đến lão.
Những người ở khu ổ chuột trước đây thường đùa rằng lão Nell là người cha thất lạc của Ben, ông già vốn nổi tiếng keo kiệt ích kỷ bỗng dưng lại đổi tính chăm sóc một thằng nhóc vô gia cư. Ông ta vốn đã sống đủ lâu để biết rằng, những con chó con tội nghiệp như vậy vốn đầy rẫy trong cái thành phố xa hoa này, lang thang rồi chết dần chết mòn ở đâu đó. Vì vậy Ben rất cảm kích lão, nếu không có sự bảo vệ và dạy dỗ của lão Nell, có lẽ anh đã chết khi còn là một đứa trẻ ngốc nghếch.
Cứ mỗi đêm trước khi ngủ Ben sẽ giành một khoảng thời gian để nhớ về ông lão, nhớ lại lúc anh không phải kiếm sống một mình.
Lão Nell chết trong mùa xuân của mười hai năm trước, những cơn ho dai dẳng dày vò lão suốt mùa đông. Cho tới khi tuyết tan, những mầm chồi non xanh mướt tách đất vươn lên, Ben thấy lão Nell mặc chiếc áo vest đẹp nhất ngồi ngay ngắn bên ngoài lều. Cả người lão tím tái nhưng sống lưng vẫn thẳng tắp như cũ, mặt quay về hướng bình minh. Những giọt băng còn đọng lại trên mũi, trên cằm lão bị ánh nắng mai đầu tiên làm cho tan chảy, nhỏ từng giọt có nhịp điệu xuống bộ áo vest màu xanh xám như một bài ca tiễn đưa. Sau đó lão được những người ở nhà cứu trợ mang đi mất. Người ta bảo Ben ông lão được đưa đi hỏa táng rồi cho vào khu nghĩa trang, vậy là chết cũng có một chỗ trú mưa trú nắng. Không phải kẻ vô gia cư nào cũng được như vậy, lão Nell còn may mắn lắm. Và rồi "Người cha thất lạc" của Ben từ đó thực sự trở nên "thất lạc", Ben không thể tìm thấy lão Nell ở bất cứ đâu, hay bất cứ một nghĩa trang nào.
Những ngày tháng sau đó Ben đã sống tốt mà không có lão Nell. Thậm chí còn chẳng cần tới những món nghề lão dạy, anh cũng không cần phải lo sẽ chết đói vào một ngày nào đó. Lúc này, trong chiếc lều bọc chăn bông lấp lóe ánh đèn nhạt, số tiền mà Ben cầm trên tay đã đủ để anh mua được một căn nhà nhỏ cho riêng mình. Nếu lão Nell còn sống, nhất định sẽ mừng đến nỗi ngoác miệng ra cười khành khạch, những vết nhăn trên khóe mắt lại sâu thêm vài đường. Nếu lão Nell còn sống, lão sẽ không cần phải chịu đựng cái lạnh cắt da cứa thịt của mùa đông trong khu ổ chuột ở Sandi nữa. Lão có thể nhìn thấy chùm hoa tử đằng nở thành từng chùm trong góc công viên khi mùa xuân đến, mang hương thơm nhẹ thanh thoát như nước hoa của các cô gái trên đại lộ Siren, mùi hương mà lão thường nói rất giống với mùi chiếc khăn voan vợ lão hay choàng mỗi khi năm mới đến.
Ánh đèn trong lều vụt tắt, một ngày nữa đã kết thúc. Ben thấy mình càng lúc càng đến gần hơn với căn nhà ngói xám trong mơ. Dẫu chỉ là mộng, cũng sẽ là một giấc mộng đẹp đẽ và hạnh phúc, như những giấc mộng mà bao người đang yên giấc bên trong những mái nhà ấm áp ở ngoài kia đang có.



Bình luận
Chưa có bình luận