Chương 1: Tan sương đông


Trời đã cuối đông nhưng mưa dông còn chưa ngớt hẳn. Giá rét tựa hồ bao trùm mọi ngõ ngách Đông Kinh, và gió, và sương, đến nỗi ta phải bỏ thói quen thỉnh thoảng ra hồ Dâm Đàm[1] ngắm sen sớm. Dù đã ở miết trong cung như vậy, buốt giá vẫn tràn qua khe cửa khiến tay chân ta đau nhức như kim châm. Đấy là kể những ngày trời khô lạnh, chứ vào tiết mưa dầm ẩm ướt từng khớp xương sẽ nhức buốt, âm ỉ không thôi. Nguyên nhân một phần do lượng than củi sưởi ấm không nhiều; tuy chi dùng không còn hạn hẹp như hồi mới đuổi giặc Ngô song chưa thể xem như đủ đầy. Chính yếu vẫn là vì chuyện tuổi tác. Hai năm nữa là sang độ thất thập cổ lai hy, vả lại tao loạn thời trẻ khiến tuổi già nhiều bệnh tật, ta biết rõ mình suy nhược nhường nào.

 

Thị Vân bởi thế vẫn hay giục ta về quê ngoại ta ở Hoan Châu[2]. Ở đó tiết trời ấm áp hơn, chỉ hiềm mưa lũ, nhưng nếu sống trong điện Phượng Hoàng hay Ngũ Long năm xưa tiên đế[3] xây cho thì ấy không phải việc gì to tát. Cuối năm nay, năm Thái Hoà thứ ba[4], thấy ta xin Thái hậu[5] về Hoan Châu thật, thị vui mừng ra mặt. Ngoại trừ thị, ta chẳng tìm thấy vẻ vui sướng ấy trên mặt một ai khác, nhất là con gái ta Ngọc Châu và Trịnh Thần phi.

 

Cũng giống như ta, Trịnh thị là người bước ra từ thời khói lửa. Năm xưa hai ta và hai vị khác nữa cùng theo hầu tiên đế, sau cùng một người thác trong chiến trận, người kia bị quyền lực che mờ mắt, chịu "lưu đày" rồi chết ở Vĩnh Lăng[6] bốn năm trước. Người với người nối gót ra đi, ngôi vua đổi chủ hai lần, thế cục trong hậu cung cũng dần khác, như Trịnh thị đã không còn là Quốc thái mẫu được trọng vọng năm nào. Việc bị Thái Tông giáng làm Trịnh Thần phi khiến tình tính bà ấy khác đi nhiều, ôn hoà và gần gũi với người dưới hơn, cũng chẳng còn mưu toan quyền lực nữa.

 

Có lẽ vì vậy mà trong chốn cung tường cô quạnh, hai bà cụ chúng ta dần thân thiết với nhau, khác xa cái hồi ta vừa được gả cho tiên đế. Ngày ta kể việc mình sắp đi, Trịnh thị lặng người, mắt nhìn xa xăm. Mấy ngón tay nhăn nheo của Trịnh thị gõ lộc cộc trên bàn một lúc lâu, thế rồi bà ấy cúi đầu đưa chuyện qua loa, được dăm câu thì bảo cung tì tiễn khách. Bà ấy rời khỏi nhà trung đường trước cả khách là ta, chân bước dồn dập, đi chẳng ngoái đầu. Có lẽ thấy ta sượng sùng, cô cung tì có tuổi đưa tiễn cười thưa, “Lệnh bà của con mau nước mắt nhưng không ưa để người khác biết. Chắc nghe bà bảo phải đi, lệnh bà bịn rịn quá nên mới vậy”.

 

Ta không nghĩ ngợi nhiều, chỉ gật đầu rồi quay về chuẩn bị.

 

 

Mấy ngày nay Đông Kinh mưa suốt. Vì muốn xuất phát sớm để kịp ăn Tết ở quê, ta sai người sang bộ Lễ hỏi hôm nào nắng ráo. Tư Thiên Giám[7] tính mãi mới được một ngày là mồng bốn, còn bảo trời sẽ nắng gắt, dặn ta cẩn thận sức khoẻ. Thế mà mới sớm ra mưa đã tầm tã, to hơn trận mưa kéo dài nửa ngày hôm qua. Ngọc Châu vừa chải tóc giúp ta vừa than, may là đêm qua con bé quyết định ở lại trong cung, nếu không sáng nay khó mà vào tiễn ta kịp lúc. Ta cười xòa đáp:

 

– Có phải không hoãn lại được đâu.

 

– U sẽ không hoãn đâu ạ. – Con bé lắc đầu, giọng như thể biết tuốt. – Con hiểu u mình mà.

 

Nửa canh giờ trôi qua, mưa ngày càng lớn, vẫn chưa có vẻ gì vơi đi. Trong tiếng rào rào vỗ trên mái ngói, ta nghe được giọng người bên ngoài xin gặp. Thị Vân đứng cạnh ấy vậy mà không nghe thấy, lẩm bẩm trách mình rồi sai đứa hầu mời người nọ vào. Chiếc áo tơi thị ấy mặc lùm xùm che khuất gương mặt và vóc người. Phải đến khi thị ấy đứng ngoài hàng hiên trút áo chỉnh trang, ta mới nhận ra đó là cung nữ thân cận của Trịnh Thần phi. Xưa nay thị ấy vẫn luôn cận kề với chủ, nếu Trịnh thị muốn nhắn gửi gì cũng sẽ sai người khác đi. Nên việc thị ấy đến đây không khỏi khiến ta bất ngờ. Càng kỳ lạ hơn là thị ấy xin được trò chuyện riêng, nên cả Ngọc Châu và Vân đều phải ra ngoài.

 

Ta biết thị ấy sắp nói việc gì hệ trọng, hoặc giả khá riêng tư; nhưng nếu đã quan trọng đến độ không thể để lọt ra ngoài thì vì sao chính Trịnh thị không tự đến. Thị ấy không giải thích gì thắc mắc của ta, chỉ dâng lên một chiếc hộp gỗ, thưa:

 

– Lệnh bà nhà con có vật này, vốn định gửi bà từ lâu nhưng đến nay mới có dịp.

 

– Đến nay mới có dịp à…

 

Ta nói vậy vốn không định hoạnh hoẹ hay bắt chẹt, song thấy thị ta luống cuống mới ngờ rằng Trịnh thị gửi tới “thứ không nên gửi”. Ấy là một chiếc hộp gỗ nhỏ hình vuông kiểu cũ, hoa văn chạm trên nắp đã không còn sắc nét. Ta ngắm nghía, không có ý định mở ra vội, mà thị ấy cũng không chờ ta mở đã vái chào xin lui. Trước khi đi, thị ấy cẩn thận thuật lại lời của Thần phi: “Ta chỉ biết được bấy nhiêu, không cố ý giấu giếm điều gì”.

 

Kỳ thật, việc đáng để người từng là sủng phi của đức Thái Tổ khai quốc như Trịnh thị xem là bí mật có quá nhiều. Việc nào cũng kinh thiên động địa cả, ta nghĩ mình đã dự trước rồi, chỉ tò mò thôi nên sẽ không quá bất ngờ. Cho đến khi thấy chiếc vòng ngọc quen thuộc đặt trong hộp, dằn trên hai ba tờ giấy gấp gọn đã ngả màu, ta mới hiểu thế nào là “bí mật”.

 

Vẫn y hệt trong trí nhớ của ta, chất bạch ngọc có màu dịu mắt. Hoa văn trên vòng là mẫu trong quá khứ, chính xác hơn là hình dây sen được chuộng trong hoàng cung tiền triều – triều Trần; vàng nạm theo viền hoa còn sáng và đẹp. Mười chín năm trước ta đưa chiếc vòng này cho Cô Trung, dặn y ra trận phải sống sót trở về. Sau đó, ta lấy chồng, y tử trận. Ta quả thực nghe tin y tử trận lúc quân Lam Sơn bao vây Đông Kinh[8] – bấy giờ là thành Đông Quan[9]. Chiếc vòng biến mất cùng với y, bẵng mười chín năm mới xuất hiện trước mặt ta, trong cảnh tượng này.

 

Từ miên man đến thất thần, từ đầu chí cuối ta nhìn chằm chằm vòng ngọc, nghe đáy lòng cuồn cuộn sóng. Tiếng sóng còn to hơn cả tiếng mưa, át và nhoè đi thứ âm thanh đục ngầu ồn ã. Đáng lẽ ta nên suy đoán hoặc chí ít là nghĩ gì sâu xa thêm: về lai lịch chiếc vòng Trịnh thị gửi đến, về xấp giấy dưới đáy hộp, về việc Trịnh thị chọn hôm nay gửi đồ và về cái chết năm xưa của Cô Trung. Nhưng từ khoảnh khắc trông thấy chiếc vòng, người ta như đông cứng. Không có câu hỏi, không có lời đáp, không có nỗi niềm vỡ oà hay nước mắt tuôn rơi, chỉ có hồi ức chảy lại trong người giờ đã dại ra.

 

Ta chợt nhớ đến một việc xảy ra hồi Thái Tổ còn tại thế. Năm ấy vừa đuổi giặc xong, thống nhất sơn hà, ngài cho điều tra, chép tên những người từng giúp đỡ khởi nghĩa hiện còn sống để ghi công. Trịnh thị đi theo Thái Tổ từ hồi trẻ, quen biết và nhớ mặt nhiều người, nhất là ở hậu phương nên cũng được gọi đến xem danh sách giúp ngài. Một lần ta sang thăm thấy bà ấy đang cặm cụi sao thêm một bản, nhác thấy ta đến thì cất vội đi. Áng chừng thứ bà ấy chép là xấp văn tự trong hộp kia. Cho nên không ngoài dự liệu, ta thấy ngay cái tên Cô Trung trên giấy. Ở một tờ giấy khác còn mới, Trịnh thị bảo rằng y chưa chết. Lúc bà ấy cho người đến Thanh Hoa tìm, y mượn dịp đó muốn vật hoàn cố chủ. Thế nhưng Trịnh thị không gửi cho ta ngay mà còn giữ đến tận bây giờ.

 

Trịnh thị làm đúng. Ta không thể không thừa nhận Trịnh thị làm đúng. Nhưng nếu đã trót giấu giếm, vì sao bà ấy không giấu đến cùng? Cũng như lời nói dối của Cô Trung, đã trót làm thì đâu cần phơi bày sự thật?

 

Trịnh thị muốn ta làm gì ư? Cô Trung của mấy năm trước muốn ta làm gì ư? Đáng lý họ phải đoán được khi hay tin, ta chẳng thể làm gì ngoài im lặng cả.

 

Quá rõ ràng, ở vị thế của ta, ta không thể làm được gì. Ta có thể mừng vui, song là mừng vui trong sự chua chát. Thế nên ta thà rằng không biết, hoặc chí ít nên biết vào cái đêm trước ngày tạ thế kìa.

 

Phải đến khi cửa kẽo kẹt mở, một loạt tiếng bước chân hấp tấp vây quanh và Vân hốt hoảng lay ta, ta mới nhận ra mình thừ người đã lâu. Lâu, lâu đến mức mắt mờ đục dần, tay chân tê cóng. Ta chụp lấy tay áo Vân rồi gần như đổ rạp cả người vào vòng tay thị, để tầm nhìn mình đen đặc hẳn và bên tai chỉ còn lại thinh lặng. Vân cố hỏi ta người đàn bà vừa rồi đã nói gì trong vô vọng. Mãi sau ta mới nghe giọng mình vang lên, nhỏ nhẹ và bình tĩnh hơn ta tưởng nhiều:

 

– Thì ra… Vậy là Cô Trung vẫn còn sống.

 

[1] Tức hồ Tây hiện nay.

[2] Thuộc Hà Tĩnh, Nghệ An hiện nay.

[3] Ở đây chỉ vua Lê Thái Tổ.

[4] Tức năm 1445 đời vua Lê Nhân Tông.

[5] Chỉ bà Nguyễn Thị Anh – mẹ vua Lê Nhân Tông.

[6] Lăng vua Lê Thái Tổ, nay là xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

[7] Là chức quan thuộc cơ quan Tư thiên đài chuyên lo việc liệu đoán khí hậu, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, tính toán lịch pháp, giữ sách thiên văn, tính nhật thực nguyệt thực, chọn ngày giờ tốt.

[8] Tên kinh thành dưới thời Lê sơ.

[9] Tên kinh thành dưới thời giặc Minh đô hộ nước ta.


Bình luận

  • avatar
    Người dùng mới

    Mới đọc chương đầu đã thấy thích giọng văn và tò mò câu chuyện rồi 

Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout
}