Chương 08. Bài bản



Chương 08. Bài bản


“Tôi chỉ muốn hạ nhục cái giới văn chương này một trận. Cả một lũ chen chúc trong hang động tối tăm, vừa tâng bốc, bợ đít, rồi thì giẫm đạp lẫn nhau, lại vừa cao giọng khoác lác sứ mệnh văn học thế này thế nọ, cái đám vô dụng này, tôi muốn chọc cho chúng một trận.”

1Q84, Haruki Murakami.


Không thể nói là bất ngờ hay không, tôi chỉ cảm thấy không đúng. Giai Du luôn luôn tỏ ra bất hạnh quá mức cần thiết trong cách viết của mình, cậu ấy có quá nhiều thứ mà Nietzsche gọi là “sự phẫn hận”. Trong khi, chẳng ai làm gì để cậu ta thành như thế cả – ít nhất là theo những gì chúng ta được biết về Giai Du, cũng không nhiều, nhưng tôi không tin rằng mình hiểu sai. Mọi thứ quá ưu ái cho cậu ấy, nhưng cậu không đồng ý rằng mình được ưu ái. Giai Du quá kiêu ngạo, cậu ấy kiêu ngạo ngay trong cái vẻ tỏ ra khiêm nhường, cố khiêm nhường cách mấy lại càng để lộ ra sự kiêu ngạo, không thể giấu giếm nổi. Tất nhiên điều này không hẳn xấu – thì, nó có ảnh hưởng gì đến tôi đâu – nhưng sự kiêu ngạo ấy khiến người khác không khỏi chướng mắt.

Tôi và Giai Du chỉ liên hệ với nhau vài lần trên mạng thôi, hồi ấy tôi muốn kết thân với cậu. Nhưng Giai Du rất khó làm thân, đáng tiếc cậu ta không phải kiểu người mà cứ nhắn tin bắt chuyện thường xuyên, bình luận vào bài viết của nhau trên mạng xã hội, xum xoe xu nịnh một tí là kết thân ngay được. Đây lại tiếp tục là điểm mà tôi nói về sự kiêu ngạo: cậu ấy chọn người để kết giao chứ không có chiều ngược lại. Giai Du rất ghét phải trở thành sự lựa chọn của ai đó. Vài lần người ta thấy cậu viết về nỗi buồn của việc “cố gắng hết sức chỉ để trở thành sự lựa chọn của người khác, để được ai đó lựa chọn”. Tôi thì không đồng tình với quan điểm này, nhưng với một người như Giai Du, cậu ta thoải mái sống theo cách thức cậu muốn: chống lại việc bản thân bị biến thành lựa chọn. Đã có rất nhiều người thử tiếp cận Giai Du và thất bại, tôi không phải là người duy nhất thử.

Không hẳn là Giai Du né tránh hay từ chối, mà cậu ta luôn có vài cách thức để “cách ly” bản thân ra khỏi những thứ cậu không hứng thú. Chẳng thể nào lôi kéo được Giai Du vào bất cứ chuyện gì, trừ khi chính cậu muốn. Lý do tuyệt vời mà Giai Du đưa ra, thiên hạ không ai phản bác được, đó là: bận làm luận văn Thạc sĩ. Nói thế thì còn ai lôi kéo được nữa! Một lý do quá mức hoàn hảo, dù tôi chẳng thấy cậu ta bận rộn gì cả, có chăng là bận sáng tác thôi, đến cả kho ý tưởng dồi dào của Giai Du cũng khiến người khác ghen tị – sao chúng có thể nhiều đến thế và sao có thể phong phú đến thế, chắc chắn phải có bí mật nào đó.

Nhưng giờ cậu cũng chẳng còn trên đời nữa, nói về người đã chết thế này cũng không hay cho lắm, đặc biệt khi cả hai cũng chẳng thân thiết gì.

***

Vào giai đoạn ấy, tôi đang đọc một cuốn tiểu thuyết của Virginia Woolf, tôi vẫn còn nhớ, là cuốn mà chúng ta đều biết: Bà Dalloway. Tôi đọc bởi vì Giai Du cứ liên tục giới thiệu về bà tác giả người Anh này trên trang cá nhân của mình, mà cách cậu nói về Virginia Woolf lại rất đáng sợ, gần giống như một sự ám ảnh hơn là yêu mến văn chương đơn thuần. Cậu còn từng khẳng định rằng phải đọc Virginia Woolf thì mới hiểu vì sao Giai Du lại viết văn theo lối như thế – mà cậu ta có lối viết nào cố định đâu, bay nhảy tứ tung với đủ mọi phong cách, chắc cậu chỉ đang nhắc đến một “lối” nào đó trong muôn vàn lối viết của mình. Và bị kích thích, tôi cũng tìm đọc thử, để rồi thất bại. Bà Dalloway là một tác phẩm dở khủng khiếp, văn chương của bà tác giả người Anh kia quá khó theo dõi – người ta luôn nhắc đi nhắc lại điểm này, như một đặc trưng, nhưng tôi không thể ngờ nó khó đọc đến mức vậy. Tôi thất vọng, thậm chí đã nghĩ rằng Giai Du đúng là điên khùng, tuy nhiên phần nào tôi cũng biết do gu đọc của mình không hợp thôi, Virginia Woolf vẫn là một tác giả nổi tiếng trên thế giới và đã nổi tiếng như vậy thì cũng hơi ngượng miệng khi bình phẩm là “dở”. Nhưng Bà Dalloway thì tôi không thể chịu đựng nổi, nó lảm nhảm nhiều đến mức thứ duy nhất đọng lại sau khi tôi đọc xong là câu mở đầu kinh điển: “Bà Dalloway bảo bà sẽ tự đi mua hoa”.

Thông qua câu mở đầu này có thể thấy Giai Du bị ảnh hưởng bởi Woolf đến mức nào: tác phẩm của cậu ta toàn hoa với hoa, chỉ khác là người ôm bó hoa trong truyện của cậu đa số là con trai, thường rất trẻ – một điều kỳ quặc khác nhưng không ai đặt câu hỏi tại sao lại như thế. Hồi ấy tôi đang tập tọng viết truyện ngắn đăng báo, tôi rất đam mê văn chương, tuy không có đủ may mắn như Giai Du, cứ chật vật khổ sở suốt mới có bản thảo được duyệt xuất bản, mà còn phải thông qua người quen của tôi giới thiệu cho. Trong khi, truyện ngắn đầu tiên của Giai Du đăng trên Văn Nghệ là do chính cậu ấy gửi vào mail chung của toà soạn, chẳng nhờ tí quan hệ quen biết nào. Tôi chưa đọc cái truyện ngắn đó, nhưng nó bị chê bai khá nhiều và Giai Du có vẻ cũng cân nhắc không kể đến, có thể nó không được như cậu dự định, hay vì lý do khác không rõ. Nhưng thế là quá tốt cho một người không có tiếng tăm rồi.

Đó là một thời kỳ đầy bão tố của văn đàn nước mình, nhưng nó có bao giờ ổn đâu, nó đã đứng chững lại và suy kiệt quá lâu rồi, những sự tụt dốc tiếp theo cũng chỉ bình thường thôi. Ngôi đền văn chương được ngợi ca là thế nhưng cũng chỉ toàn những tên văn nô, đắp tiền vào để ca tụng lẫn nhau, còn tình hình thực tế thế nào thì ai cũng ngầm hiểu. Giai Du may mắn rơi vào giai đoạn đó, nghĩa là thời kỳ mà chỉ cần xuất hiện một người trẻ trẻ viết văn là đáng khuyến khích lắm rồi, nếu nhận chút đánh giá tốt nữa là nổi bật ngay. Sự ảm đạm kéo theo cái chuẩn chung cũng thấp, viết hơi tốt một tí là sẽ thành công, rất dễ. Mà cậu ta cũng quá giỏi trong việc nắm bắt thời cơ, chắc chắn phải có cả một kế hoạch đồ sộ trong cái đầu ấy, tôi không tin từng bước đi của cậu lại ngây thơ và hoàn toàn thiếu tính toán đâu.

Tôi cũng có những tính toán của mình khi bước trên con đường này, nên tôi mới đăng ký học lớp viết văn của Vy. Các khoá học viết văn thì luôn mọc lên như nấm, chỉ cần thành học viên của những người thầy ấy là sẽ được họ tìm đường cho in sách in báo, đăng ký học chỉ là để lợi dụng quan hệ sẵn có trong giới của họ thôi. Mấy kẻ mở lớp cũng ngầm biết người ta tìm đến mình với lý do gì, nên họ cũng tích cực quảng cáo rằng trong tháng này học viên nào của mình có bài đăng báo, học viên nào viết được gì và có giải gì. Thế là lại lôi kéo thêm càng nhiều người đăng ký với mục đích được bước chân vào ngôi đền văn chương. Nên một kẻ chẳng học qua trường lớp mà đạt được thành công như Giai Du, người muốn tâng bốc thì sẽ gọi là nhân tài, thiên phú – Giai Du rất ghét bị gọi thế – còn người muốn chê bai sẽ gọi là ăn may, gặp thời, tiểu xảo.

Mà sao dám bảo rằng Giai Du không có tiểu xảo. Hãy nhìn những tác phẩm cậu ấy viết và đề tài được chọn đi, đều là những thứ công chúng quan tâm: LGBT+, đấu tranh thiện-ác, yếu tố văn hoá dân tộc, các chủ đề bất hủ, tình cảm gia đình, cảm hứng lịch sử, những số phận bất hạnh trong xã hội… toàn đụng trúng mấy thứ ai cũng tưởng là hay ho. Cậu ta có thèm viết những chủ đề mang màu sắc triết học, phân tâm học, những biểu hiện độc đáo, siêu thực, hỗn loạn, kỳ lạ, hậu hiện đại, giải cấu trúc đâu. Nói chung, đọc là biết Giai Du rất tầm thường, chỉ nhờ tiểu xảo mà được quan tâm thôi. Cậu ấy có cách thôi miên độc giả tin rằng tác phẩm của cậu sâu sắc, trong khi những thứ đã in của Giai Du toàn là những thứ dễ đọc, chẳng hề có cá tính hay thách thức khẩu vị độc giả gì hết. Một người nghệ sĩ mà chiều lòng thị hiếu như vậy thì hỏng rồi.

Sở dĩ tôi có thể tổng kết được tường tận là vì tôi đã đọc gần hết những thứ quan trọng cậu ta viết, tất nhiên chỉ mấy thứ có vẻ quan trọng, chứ đâu thể toàn bộ được. Không chỉ những tác phẩm đã được in đâu, chúng chẳng thể cho ta thấy được Giai Du, những tác phẩm đã in thể hiện một Giai Du không mấy chân thật, mà có lẽ mọi người sẽ bật ngửa khi đọc những tác phẩm cậu đăng trên mạng – chúng làm hiện lên một Giai Du khó mà ngờ tới. Thế nên mới có chuyện người ta đổ xô nhau đi tìm và in những di cảo của cậu sau khi cậu mất, bởi vì những gì đã in trên thị trường là quá ít ỏi, không nói được gì hết – dù về mặt số lượng thì có thể xem là nhiều rồi.

Tôi đã nhắc đến tình hình văn chương hồi đó. Sau khi cậu ta thắng cuộc thi, phải, mọi thứ rơi vào một khoảng hụt ghê gớm. Có lẽ cuộc thi mà Giai Du thắng là cuộc thi văn chương còn tiếng vang cuối cùng vào thời điểm ấy – may cho cậu ta. Ngay sau đó là đến những cuộc thi vấp phải đủ mọi lùm xùm, ồn ào, văn đàn chửi nhau tan nát. Nhưng như tôi nói, Giai Du có cách tách bản thân ra khỏi những chuyện cậu ta không quan tâm, tất nhiên sao mà cậu ta không biết gì hết được, xôm tụ đến mức đó mà, nhưng cậu không quan tâm, từ chối tham dự, dù tôi và một vài người đã tìm cách kéo cậu vào. Thật ra là do tính Giai Du ai cũng biết, khó mà bảo cậu ta nhận xét đồng nghiệp. “Không nhận xét đồng nghiệp công khai” là quy tắc riêng của Giai Du, cậu giải thích là mình không có khả năng đó – hãy để những người có khả năng đó làm thay cậu, cậu không có khả năng đánh giá văn chương của người khác (có khi của cả chính cậu cũng nên). Tôi đã từng nhờ Giai Du đọc và nhận xét tác phẩm của mình, cũng nghe bảo có vài cuộc thi mời cậu làm giám khảo, nhưng Giai Du từ chối tất thảy với cái quy tắc không nhận xét hay chấm điểm đồng nghiệp ấy. Tôi không đồng tình với quan điểm này lắm, nhưng nếu cậu ta không giỏi bình tán thì không làm cũng hợp lý thôi, đâu phải ai cũng có cái khả năng này.

Tôi đã đăng ký một lớp học do một nhà văn khá có tiếng mở ra. Trên trang cá nhân của cô đăng rất nhiều thành tích của học viên, người theo học cô chỉ cần một khoá là đã có bài đăng báo, có khi là cả lớp dồn hết bài vào một số báo, đâu đâu cũng thấy tên học viên của cô ấy. Tất nhiên không phải là mua bài, chỉ là có chút quan hệ để liên lạc gửi bài thôi. Hồi đó bài chất lượng để lên báo không nhiều, đa số tác phẩm trên báo cũng thuộc dạng làng nhàng, có nhiều truyện ngắn hay tản văn viết ra chẳng hiểu để làm gì, cảm giác rất vội vàng và nông cạn. Thế nên, chỉ cần biết cách viết và chỉn chu một chút là đăng được rồi, thêm quan hệ người quen nữa thì xem như có thể cầm chắc một suất. Chuyện các học viên lớp cô ấy có thể chiếm hết một số báo cũng là nhờ cơ chế này.

Tôi đăng ký học là vì mục đích ấy. Hồi đó, tôi đã tuyệt vọng hết mức khi cứ gửi tác phẩm mà nhận về lời từ chối quá nhiều hoặc chẳng thấy hồi âm. Tôi không nản lòng, chỉ là quá bất lực thôi, cảm giác cứ gửi bản thảo mình tâm đắc đi để rồi chẳng biết đến đâu, chẳng biết có ra trò trống gì không hay thậm chí không có bất kỳ hồi đáp nào quá đáng sợ. Nhưng ngôi đền văn chương là vậy đấy, có những người tìm đỏ mắt mà chẳng thấy lối vào, chật vật mãi trong tuyệt vọng, trong khi có những người rất suôn sẻ mà mình chẳng hiểu làm sao họ suôn sẻ được thế. Tôi thừa biết là cũng nhờ quan hệ, quen biết cả, không bao giờ có chuyện cố gắng trong âm thầm mà đạt được. Nên khi thấy Giai Du xây dựng hình tượng một người “ngoại đạo” chỉ cần chất lượng tác phẩm là bước vào ngay chẳng nhờ cậy gì, tôi luôn bực tức kinh khủng, vì tôi thừa biết làm gì có chuyện đó, chắc chắn là được nâng đỡ thì người ta mới tiến nhanh như vậy.

Lớp học tôi tham gia cực kỳ ngu ngốc. Chẳng khác nào mấy tiết học viết văn miêu tả, biểu cảm hồi cấp hai, cấp ba hết. Kiến thức thì chỉ cần tra trên mạng hoặc hỏi A.I là có thể soạn đâu ra đó ngay. Nhưng tôi vẫn cố gắng đi học, không bỏ buổi nào, bởi vì sợ sẽ bỏ lỡ mất thông tin quan trọng, ví dụ như mail của biên tập viên một tờ báo nào đó chẳng hạn. Và cũng để làm thân với cô giáo, được cô ấy quan tâm và công nhận thì có khi sẽ giới thiệu tôi với nhà xuất bản cô biết. Một lớp học có khoảng mười thành viên, thế nên cô cũng có thời gian cho từng người, không ai bị bỏ qua, chúng tôi có thể yên tâm là mình sẽ được nhìn đến và trao cơ hội, việc bây giờ là chờ đợi thôi.

Tôi nghĩ, đã nhân tiện vào học ở đây rồi thì sẵn kết bạn với vài người, lớp cũng không đông lắm nên có lẽ sẽ dễ thân, có bạn bè văn chương cũng tốt. Nhưng rốt cuộc tôi chẳng hợp gơ được với ai. Trước thì tôi có viết trên một số diễn đàn và trang web đăng truyện nên có tham gia hội nhóm, biết và nói chuyện với một vài người nhưng cũng chỉ là những người trên mạng thôi. Họ mở miệng ra là viết vì đam mê, viết cho vui hay tỏ vẻ mình đang tạo ra thứ văn chương “từ chối thị hiếu” nhưng trong lòng thì thèm khát được xuất bản đến phát điên, mỗi lần nghe tin ai được xuất bản là máu nhỏ nhen nổi lên, họ ùa vào trù dập dù chưa đọc được chữ nào, với lý do “cần gì phải tốn thời gian đọc khi đã thừa biết nó dở”. Những người đó ban đầu tiếp xúc thì thấy rất thích, kiểu họ có cá tính nghệ thuật, đam mê thuần khiết và tôi cũng thấy được an ủi khi biết mình thuộc về nhóm “ngầm”, chống đối lại giới “văn chương chính thống”. Nghe ngầu vô cùng. Song, cũng chỉ là hồi đó, sau này tôi đã lọc bớt họ ra khỏi vòng tròn quan hệ của mình, bởi tôi thừa biết cách họ tỏ vẻ như thế rốt cuộc chỉ để an ủi chính họ, chỉ là trò thắng lợi tinh thần của mấy thằng AQ mà thôi, chứ họ mà có cơ hội xuất bản hay nổi tiếng thì thái độ với “giới chính thống” sẽ khác ngay. Thì đúng là việc tự nhủ mình hơn-người-khác-đời, không hợp với chuẩn chung nên không nổi tiếng nghe rất an ủi mà, phải không?

Trong đám ấy, chúng tôi có một người đàn anh, gã đặt một cái bút danh tiếng Nga, luôn tự xưng bản thân là “lão”. Tên ấy cũng là trưởng nhóm chat. Mỗi lần có thông tin xuất bản của một tác giả mạng nào đó, lão này lại chụp màn hình gửi lên nhóm, rồi đây sẽ như phát súng mở màn, đám còn lại ùa vào đọc vài dòng, phân tích từng câu từng chữ của tác phẩm được lên bản quyền kia, sau đó bè dỉu, cuối cùng chốt hạ: “Viết như hạch mà cũng mặt dày đem đi xuất bản, nền xuất bản này chỉ thèm lợi nhuận thôi! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề nào cũng là bất lương rồi nhưng sự cẩu thả trong…” nói chung là mấy trường hợp trích dẫn sẽ khiến chính Nam Cao nhìn mà hộc máu như vậy. Nhưng cũng ngầu mà, phải không, chẳng khác nào thể hiện bản thân là quan toà nghệ thuật, kẻ gìn giữ văn chương nước nhà, sứ mệnh cao cả thiêng liêng đóng góp cho sự phồn vinh bất tận của nền văn chương đang đến hồi ngoi ngóp này cả – mà nó có bao giờ thật sự sống đâu. Hồi đó tôi thấy họ thật ngầu, thẳng tính, đầy nổi loạn và lão chủ soái nọ chính là một trong những hình tượng tôi muốn theo đuổi, muốn viết và thể hiện cá tính giống như lão ấy. Chúng tôi luôn hy vọng những tác phẩm của lão được xuất bản vào một ngày nào đó, song khi đứng trước những lời tâng bốc, lão luôn tỏ ra thản nhiên, bảo rằng bản thân không thèm thuồng mấy thứ hư danh như xuất bản hay có người hâm mộ. Sau này tôi mới biết vì lão gửi bản thảo đi khắp nơi mà chẳng nhà xuất bản nào duyệt, nên nói thế cho đỡ ngượng, giữ được chút thể diện nào hay chút nấy.

Được một cái, Giai Du là trường hợp nổi lên trong một giây phút, chỉ một giây phút thôi, nhưng đã có sẵn chút quen biết trong giới viết mạng rồi. Nên hội nhóm chúng tôi còn không kịp nói xấu. Nếu nổi tiếng mà chưa được công nhận bởi giới chuyên môn thì chúng tôi còn bè dỉu là văn chương nông cạn, còn nếu được công nhận mà không nổi thì chúng tôi có thể cười cợt là sách ra quầy đồng giá cân ký. Nhưng vừa nổi vừa được công nhận chỉ trong một ngày, có tất cả trong một ngày, chúng tôi còn nói gì được nữa? À không, chúng tôi vẫn nói, là chắc chắn phải có quan hệ, được nâng đỡ. Dù đó chỉ là khoảng thời gian ban đầu, về sau chẳng ai tìm được điểm nào củng cố cho mấy lời chê bai này: ai nâng đỡ Giai Du? Giai Du quen biết ai? Ai đứng sau? Chẳng mò ra được. Mọi người đành chấp nhận tạm tha cho cậu ta, nhưng trong lòng vẫn nghĩ là vì cậu ta “giấu” quá kỹ thôi chứ bên trong chắc chắn phải có gì đó, đợi ngày lòi cái đuôi ra thì ăn mừng sau. Vả lại, đến một ngày sách của cậu ấy vẫn sẽ bán ế và ra quầy đồng giá, còn nếu nổi đình đám thì sẽ bị mổ xẻ tan nát, nói chung đã thù ghét rồi thì luôn có cớ để ta ăn mừng.

Dạo đó, khi tham gia lớp dạy viết văn, tôi chỉ dám lén lút đăng ký và đến học, tôi còn chia sẻ với cô và mọi người rằng mình không muốn xuất hiện trong những ảnh chụp hay bài đăng của lớp. Tôi sợ chỉ cần cái mặt hay tên của mình xuất hiện có liên quan đến việc học viết, tôi sẽ trở thành trò cười và chính tôi cũng sẽ thấy nhục nhã. Đối với tôi thì việc này không khác gì một nỗi nhục hết, tôi chỉ có mục đích duy nhất là kiếm chỗ đăng những gì mình viết thôi.

Trước đó tầm một tuần, tôi nhận được thư từ chối từ nhà xuất bản, chắc phải là lần thứ vài chục cho cái bản thảo thứ năm thứ sáu gì đó của tôi rồi. Cứ viết rồi gửi và bị từ chối, xong sửa lại gửi chỗ khác vẫn bị từ chối, đăng lên mạng để có người nhìn ngó nhưng chẳng ai nhìn ngó và gửi đi vẫn bị từ chối, chuyển qua viết cái khác và gửi rồi bị từ chối tiếp. Tôi bị phủ định năng lực liên tục, đến mức tự nghi ngờ về giá trị của bản thân. Đó là khoảng thời gian hết sức kinh khủng. Tôi buộc phải thoát khỏi nó: không gửi bản thảo qua đường liên hệ chung nữa mà gửi trực tiếp cho các biên tập viên. Tôi nghĩ làm vậy thì khả năng được nhận in sẽ cao hơn.

Cô Vy nhận xét sau khi đọc những thứ tôi đã viết nộp vào buổi đầu tiên để khảo sát, “Anh Kha này rất đam mê, văn anh có cá tính lắm, nhưng thị trường Việt Nam không chuộng kiểu viết này đâu. Thảo nào anh cứ nộp rồi bị từ chối, các nhà xuất bản và các tờ báo thích những tác phẩm đời thường hơn, phản ánh hiện thực, câu từ tinh gọn và hiệu quả.”

Tôi thừa biết kiểu văn chương của mình không theo quy luật đó của hệ thống xuất bản, tôi theo đuổi thứ nghệ thuật cao cấp hơn nhiều và coi khinh những kẻ viết ra mấy tác phẩm đọc vào là thấy tư duy còn kẹt lại ở thế kỷ trước trong khi nhân loại đã bước qua thiên niên kỷ mới hơn hai chục năm rồi. Những thứ văn chương than nghèo kể khổ, quanh quẩn với cái đói cái rách như Nam Cao, tư duy của thể chế xuất bản vẫn cũ kỹ như vậy suốt bao nhiêu năm nên văn học nước nhà mới chẳng phát triển nổi. Để rồi lớp nhà văn trẻ lại phải nuông chiều theo hướng đó – như Giai Du – để được xuất bản, cứ vậy mà trì trệ mãi vì ngại làm mới.

Giai Du cũng có những tác phẩm không xuất bản được, chính những tác phẩm này mới cho thấy một góc độ đặc biệt của cậu. Tôi nhớ, có một lần, hình như hơi mất kiểm soát, Giai Du gián tiếp thừa nhận rằng một vài lần cậu cố làm gì đó mới mẻ, rốt cuộc lại bị dập cho tan nát, hết người này đến người kia tỏ ra thất vọng, từ đó cậu chẳng dám làm gì nữa cả, chỉ dám làm trong “thế giới riêng”. Dù vậy, cũng là chính cậu nói, rằng thực ra việc tiếp nhận và diễn giải văn chương là nằm ở độc giả, họ có toàn quyền – đúng nghĩa đen – phán xét, khen chê, phê bình một sản phẩm nghệ thuật theo cách nào cũng được, còn ngược lại nghệ sĩ không được phép phán xét công chúng – bởi vì, theo cậu, việc đó rốt cuộc cũng có thay đổi được gì đâu. Để rồi khi cậu chết, người ta lục lại những di cảo này và thấy chúng thật “thú vị”, bắt đầu đem đi biên tập và in ấn, trong khi lúc tác giả còn sống thì chúng bị từ chối sạch sẽ.

Dù vậy, tôi vẫn xem nỗ lực của Giai Du là nỗ lực không triệt để, nghĩa là cậu ta chia bản thân làm hai, một bên xuôi dòng theo thời thế, một bên âm thầm đi ngược lại trong bóng tối. Lối đi ấy dành cho những kẻ thông minh, hay tôi sẽ nói thẳng: dành cho những thằng cáo già. Một gã nghệ sĩ cách tân không triệt để, cách mạng không triệt để, đúng tư duy của bọn tầng lớp trí thức dễ lung lạc.

“Được rồi, em hiểu vấn đề của anh Kha rồi, em sẽ giúp anh giữ lại được cá tính sáng tác phần nào, nhưng cố tìm hướng uyển chuyển để phù hợp với nhu cầu xuất bản nước mình.” Cô giáo nhìn tôi và mỉm cười, khẳng định chắc nịch.

Tôi nghĩ về lời nhận xét này theo hai hướng. Một là cô ta đang chỉ tôi cách để “cáo già”. Hai là thực ra cô thấy tôi viết dở tệ, chẳng phải thứ mà cô hứng thú, thậm chí là cô thù ghét chúng, chỉ là không biết chê thế nào nên chọn diễn đạt vậy thôi, rồi sau này cô sẽ biến văn chương tôi viết thành một thứ khác mà chính tôi cũng phát hoảng vì sự lạ lẫm của chúng, như thể chúng từ bàn tay của kẻ khác viết ra. Đó là cái mà người ta gọi là tha hoá – bị biến thành một thứ xa lạ với chính mình.

Quả thực, ý thứ hai đã đúng. Chỉ cần qua vài buổi học là tôi nhìn thấy rõ mồn một. Điều này đáng lẽ không có gì kỳ lạ: chẳng phải trường học, dù ở bất kỳ quốc gia nào, luôn luôn là hệ thống cho ra “sản phẩm hàng loạt” hay sao, tất nhiên khi tham gia một lớp học thì tôi đã chấp nhận đưa mình trở thành một sản phẩm trong một lô hàng giống hệt nhau rồi.

Trong một buổi nói chuyện, tôi đã hỏi người bạn cùng lớp, ngồi cạnh mình, “Này, chị có thấy mấy bài giảng này y hệt như đang dạy tập làm văn hồi còn đi học không. Những bài văn tự sự, miêu tả, biểu cảm và thuyết minh.”

Người chị gái gật đầu, “Đúng rồi em, chúng ta phải quay về những cách viết cơ bản đó, chúng được dạy trong trường thì có nghĩa chúng đã là những khuôn mẫu, là chuẩn tốt nhất mà báo chí hay văn chương cần rồi.”

Tôi không trả lời, tôi biết mình sẽ không kiếm được người bạn nào ở đây cả. Việc theo học những lớp viết văn bài bản này không phù hợp với tôi. Tôi vẫn sẽ viết và nộp bài vở theo hướng được yêu cầu, nhưng tất cả cũng chỉ là bài tập, tôi không thể học theo được.

***

Một ngày nọ, tôi bị ốm nặng, trời thì mưa dồn dập, tôi đành phải xin phép nghỉ học lớp văn một buổi. Nhưng dù ở nhà thì trong lòng tôi vẫn thấp thỏm mãi, tôi nghĩ đó chỉ do mình bị bệnh và mệt thôi. Qua buổi hôm sau, tôi hỏi mọi người bữa trước học gì, họ trả lời là học tiếp về cách lập dàn ý cho tác phẩm, tôi hài lòng bởi vì đấy tiếp tục lại là một nội dung chẳng có nghĩa lý với tôi. Việc trình bày ý tưởng với tôi thuộc về bản năng tự nhiên hơn là cần phải lập dàn ý, mà kể cả đến những người lập dàn ý cho câu chuyện của họ thì họ cũng có viết hay hơn đâu, câu chuyện của họ chỉ rõ ràng hơn thôi – mà “rõ ràng” tiếp tục là điểm tôi không thích trong văn chương, tôi ghét sự rõ ràng mà người ta tìm kiếm khi đọc một tác phẩm, khi mọi thứ được giải thích quá cặn kẽ đến mức lố bịch và ngột ngạt, đọc vào chỉ thấy nỗi sợ của tác giả liệu độc giả đọc có hiểu hay không.

Chính vì thế mà tôi thong thả nghỉ thêm hai buổi nữa, tổng cộng ba buổi không tham gia. Tôi cứ giữ thái độ như vậy đến buổi cuối cùng. Chúng tôi “tốt nghiệp” bằng một truyện ngắn hoặc tản văn, tuỳ mục tiêu của mỗi người. Cô giáo khen tôi đã có tiến bộ rất nhiều so với trước, chỉ cần hai tháng với hơn mười buổi học thôi, văn phong cách viết của tôi đã có sự khác biệt rõ ràng. Tôi nhận lấy lời khen ngợi đó mà trong lòng thừa biết rằng mình sẽ chẳng bao giờ lặp lại kiểu viết này một lần nào nữa.

Nhưng mục đích tối hậu tôi muốn lại chưa đạt được, kể cả khi khoá học đã kết thúc. Chẳng có bất kỳ bài viết nào của tôi hay của lớp được chọn gửi đăng đâu cả. Trước khi vào học cô giáo đã hứa hẹn sẽ chọn những bài đạt chất lượng của học viên để gửi đi giới thiệu cho các biên tập viên cô quen. Tôi tin ai đăng ký học ở đây cũng đều hướng đến điểm ấy. Các bài tôi gửi cô cũng đều đánh giá ổn, đặc biệt là bài “tốt nghiệp” còn được đánh giá rất tốt – dù ai trong lớp này cũng đều được phê tốt thế cả. Tôi thấp thỏm, chẳng lẽ không có thứ gì mình viết ra đủ tiêu chuẩn in, dù đã cố thay đổi cách viết cho hợp chuẩn hay sao?

Vả lại, chẳng ai trong lớp nói về điểm đó, không ai được chọn in nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Thậm chí, họ còn bày tỏ rằng khoá học này vô cùng có ích, họ chụp ảnh cô trò ôm ấp cười nói đăng lên mạng với dòng trạng thái cảm ơn và xúc động. Do đó, tôi không biết phải mở miệng đề cập như thế nào, tôi không phải kiểu người đưa ra đề nghị thẳng thừng rằng bản thân muốn cậy vào quan hệ để đạt được mục tiêu. Dù đúng là tôi đã tham gia lớp này, nhưng đó là giới hạn cuối cùng rồi, không thể hơn được nữa, nếu không thì chẳng khác nào đang sỉ nhục chính mình. Vậy là lớp học cứ thế kết thúc, tôi mất hai triệu rưỡi và hàng đống thời gian chẳng để làm gì, chẳng thu hoạch được gì ngoài mớ tài liệu tôi có thể nhờ A.I cho ra mười bản như thế còn được. Tôi hoang mang tự hỏi tại sao những người khác trong lớp lại bình thản khi “bị lừa” mất số tiền ấy, như thể họ chẳng mất gì cả?

Sau này tôi tá hoả khi biết rằng không phải vậy. Tầm một tháng sau khi “tốt nghiệp”, các thành viên lớp tôi lần lượt xuất hiện trên báo này báo nọ, đăng từ truyện ngắn, tản văn, chia sẻ cuộc sống, thậm chí là tham gia các cuộc thi trôi nổi. Có vẻ ai cũng được hỗ trợ mở đường chỉ lối, mỗi tôi là chẳng thấy con đường nào. Tôi thật sự sốc và thậm chí cảm thấy đau đớn, thất bại. Tôi nghĩ chẳng lẽ cô giáo đã loại mình khỏi “đối tượng nâng đỡ” vì tôi viết quá tệ không thể cải thiện hay sao. Tôi đã cố đội lốt phong cách khác, viết khác những gì mình từng viết và có thể gọi là phản bội tư duy thẩm mỹ của bản thân. Chẳng lẽ bao nhiêu đó vẫn chưa đủ? Sao con đường văn chương lại khó khăn trầy trật với tôi thế này?

Tôi đành phải lò dò hỏi xem họ lên bài bằng cách nào, có đúng là được cô giáo giới thiệu với người quen không. Nhưng, như tôi đã nói, tôi không đủ thân thiết với ai trong lớp cả, bỗng nhiên đi hỏi cách thức thì lại lộ ra rằng mình đang rất thèm khát. Thế là tôi bắt đầu bằng việc làm thân từ từ, tương tác dưới các bài đăng của một bạn nọ, sau đó còn để lại bình luận dưới bài khoe được in của bạn ấy: Ồ, vui quá, chúc mừng em nha! và rốt cuộc cũng thành công được bạn bắt chuyện trước. Cả hai chào nhau qua lại vài câu, vì đã gặp mặt nhau ở trên lớp rồi nên không cần giới thiệu lại. Một lát sau, bạn hỏi tôi:

“Anh Kha dạo này có viết được nhiều không?”

Tôi nắm ngay cơ hội, trả lời bâng quơ, “Cũng có viết, nhưng anh chưa gặp may để lên báo như mọi người.”

“Ơ, sao lại thế ạ? Em tưởng cô Vy đã hỗ trợ hết cả lớp rồi…”

“Có chuyện đó hả?”

Thế là, tôi biết một sự thật đáng buồn. Trong ba ngày tôi không đến lớp, có hai ngày cô giáo cung cấp cho lớp một danh sách người quen làm biên tập viên ở khắp các toà soạn trong nước, chỉ cần bảo mình là học trò cô Vy là có thể kết nối trao đổi công việc được, đó cũng rơi vào đúng ngày lớp thống nhất những bài viết nào sẽ được cô giáo gửi giới thiệu đến người quen. Lớp tôi là một lớp viết rất khá, tất cả đều liên hệ được chỗ này chỗ khác, người không được chỗ này thì cũng đã kiếm bến đậu chỗ nọ. Chỉ có tôi, chẳng ai nhớ đến tôi, hoặc có nhớ nhưng cũng chỉ nhớ ngay lúc đó thôi, xong đến hôm sau cũng quên mất. Tôi giận đến mức tay chân nóng bừng, không thể nhắn tin được nữa. Tôi cố ngồi yên một chỗ để hít vào thở ra, căn phòng bỗng nhiên ngột ngạt khủng khiếp. Thật trớ trêu, thật sự tổ nghiệp không chịu độ tôi và số của tôi không hợp với văn chương rồi, việc trùng hợp xui xẻo đến mức ấy mà cũng có thể xảy ra được, chứng tỏ tôi không hề có chút duyên nào với việc xuất bản cả. Sự tỉnh ngộ này khiến tôi đau đớn vô cùng.

“Anh Kha thử hỏi lại cô Vy xem, em thấy cô có ấn tượng tốt về anh mà, nên nghĩ chắc văn anh cũng hợp với cô. Cô sẽ giúp anh thôi!”

Tôi cảm ơn người em kia, dẫu sao em ấy có vẻ cũng là một người tốt bụng, thân thiện.

Tuy nhiên, vấn đề là đã một tháng kể từ ngày “tốt nghiệp” và từ đó tôi không liên lạc gì với lớp, thậm chí chưa từng nhắn tin riêng với cô giáo lấy một câu, nhóm chat thì tắt biệt thông báo. Bây giờ bỗng nhiên mò tới thì hèn quá, nhục quá, cũng chẳng khác nào đang khẳng định mình đi học viết văn không phải vì “niềm yêu nghệ thuật” mà chỉ vì một lý do tầm thường là “muốn được in”. Tôi và cái nhóm bạn văn trên mạng vẫn luôn mạt sát chửi bới những kẻ “dùng văn chương kiếm tiền”, “nghệ thuật thực dụng”, thế nên tôi không thể làm gì để biến mình thành một kẻ như mình từng mắng nhiếc được. Đó chẳng khác nào là đang vả mặt bản thân trong quá khứ.

Chuyện này chưa xong thì chuyện khác đến, một người bạn trong nhóm bạn văn nhìn thấy bình luận “Ồ, vui quá, chúc mừng em nha!” của tôi trên trang của người em cùng lớp. Nó chụp màn hình và gửi vào nhóm, hỏi tôi đang làm gì vậy, sao đi qua lại với cái tụi viết văn nông cạn, viết chỉ để đăng báo ấy, còn chúc mừng nữa, tụi nó đi học lớp viết văn đấy, đó là chuyện đáng xấu hổ, sao mày lại chơi với tụi nó, hay mày cũng đã đi đăng ký học viết văn? Lão chủ soái cũng vào đặt dấu chấm hỏi, tỏ rõ sự thất vọng về tôi.

Tôi phải nhảy vào giải thích ngay lập tức, tôi bịa rằng đó thực ra là một người quen hồi Đại học của tôi mà thôi, học dưới tôi hai khoá, chúng tôi quen biết nhau lâu rồi và ngoài xã giao bình thường thì việc ai nấy làm. Lời chúc mừng kia chỉ là xã giao lấy lệ thôi, chứ tôi cũng chẳng thích thú gì cái bài viết được đăng báo ấy – cái này tôi nói thật, tôi còn không đọc cái bài đó. Thế là mọi người tạm hài lòng, miễn sao trong đây không có ai liên quan đến cái bọn đi học viết văn là được. Rồi, lão chủ soái bảo:

“Vậy thì sẵn tiện đem cái bài đăng đó ra  phân tích luôn, Kha đã không thích thú gì thì chắc nó đáng nói lắm!”

“Được được, để em vào đọc thử, thấy ngay câu đầu là sáo rỗng rồi này.”

“Thằng này viết còn bị lặp từ nữa. Biên tập viên tờ báo chắc in vội cho đủ KPI rồi.”

“Biết ngay mấy trang báo chính thống này sẽ ưu tiên lựa những chủ đề cũ kỹ về làng quê, quá khứ nghèo khổ, đời sống dân lao động mà. Cũ kỹ quê mùa, lỗi thời nữa. Đọc phí thời gian thật!”

Và việc tiếp theo diễn ra như thường lệ, cả đám bâu vào xâu xé bài tản văn về một buổi chợ quê kia. Nhưng lần này, tôi rùng hết cả mình, lạnh sống lưng vì sự độc hại bủa vây nhóm chat. Chẳng hiểu sao, đã rất nhiều lần việc tương tự diễn ra, không ít lần tôi còn vào hùa với họ, nhưng đến lần này tôi cảm thấy khiếp vía vì hành vi mổ xẻ văn chương trong khi đã có sẵn ý thức ghét bỏ trong đầu như họ đang làm. Không phải khi đọc một tác phẩm, ta phải bỏ hết mọi định kiến đi hay sao, đằng này họ đọc chỉ vì sự thù ghét của họ, sự khao khát chà đạp kẻ khác để tự thấy mình tốt đẹp hơn của họ. Sở dĩ tôi cảm nhận rõ ràng điểm sai sai là bởi vì đối tượng được chọn lần này là một người quen của tôi, mà em ấy lại chẳng có gì xấu xa cả. Em ấy cũng chỉ là một người đang học viết bình thường, thậm chí rất tốt bụng khi đã chia sẻ những điều tôi bỏ lỡ trên lớp, đã rất hoà nhã với tôi. Em ấy vẫn đang học tập để tiến bộ, thế mà chỉ vì một cơ may được đăng báo hay bước chân vào giới viết “chính thống” mà lại bị một đám người ở đây mạt sát cười cợt chẳng tiếc lời gì, trong khi chính người bị mổ xẻ còn chẳng biết đến sự tồn tại của họ.

Tôi đột nhiên hiểu ra: nếu cứ vào hùa với một đám đông nói xấu người khác, thì ai biết được liệu tương lai tôi có trở thành đối tượng tấn công của chính đám đông ấy hay không. Họ có tha cho tôi không nếu bỗng dưng tôi xuất bản một cái gì đó? Đến đây, tôi gần như sụp đổ. Văn chương không phải như thế này. Không phải như thế này. Chắc chắn không phải như thế này…

***

Sau đó ít lâu, tôi vô tình gặp lại cô giáo ở một nhà sách. Cô vẫn nhớ tôi, dù tôi không nổi bật trong lớp lắm và chẳng có thành tích nào sau khi “tốt nghiệp” để cô bỏ vào album giới thiệu. Cô gọi tôi trước:

“Anh Kha, trùng hợp quá, nay anh đi nhà sách à?”

“Đúng rồi, tôi hay đi ngắm sách thôi. Không ngờ lại gặp được cô giáo ở đây!” Tôi có thói quen đến quầy của các nhà văn trong nước để xem sách của họ.

“Ở ngoài thì cứ xưng anh-em là được rồi anh.” Cô chìa hai cuốn sách đang cầm trên tay ra, “Em đi kiếm sách của một người đàn anh giới thiệu, đây là tập sách in chung của nhóm văn họ viết với nhau. À, đây là sách của Giai Du, anh Kha biết cuốn này không?”

Đó là một tập truyện ngắn của Giai Du, từng bị đánh giá là cực kỳ nhạy cảm, thậm chí tôi còn nghe nhiều người chửi không thương tiếc. Thật ra, tôi đoán là Giai Du muốn điều đó, bởi vì ai cũng muốn khuấy động xã hội bằng sáng tác của mình. Và đã là nhà văn thì sẽ đến lúc bị chửi thôi, như Nguyễn Ngọc Tư từng bị bắt đi học Đảng vì viết Cánh đồng bất tận vậy, văn chương nghệ thuật thì phải chịu.

“Anh có biết, cũng đã đọc rồi.” Tôi đã đọc hồi chúng còn được đăng trên mạng, “Dạo này các lớp học của em thế nào?” Tôi chuyển qua đề tài chung của cả hai.

“Vẫn vậy thôi, các bạn đi học lớp em rất dễ thương. Mà anh Kha dạo này còn viết không, em nhớ anh viết tốt lắm!”

Tôi đột nhiên nhận ra, đây chính là cơ hội lớn. Nếu tôi nhân dịp này giữ liên lạc được với cô giáo, tôi sẽ xin được mấy cái liên hệ mà lần trước tôi đã để vụt mất. Bằng mọi giá tôi phải nâng mối quan hệ giữa cả hai chúng tôi lên mức thân thiết hơn, để đạt được mục đích là cô tự động giới thiệu tôi với những người cô quen biết ở các toà soạn – cô phải tự giới thiệu, tôi không thể mở miệng trước.

Tôi xin cô cho biết tên của cuốn sách tập hợp truyện ngắn của nhóm viết cô quen. Nhưng vì cái tên hơi khó nhớ, thật ra nó quá tầm thường để nhớ mà không bị nhầm sang những cái tên sách khác, nên cô hứa là về cô sẽ gửi luôn tên sách cho tôi qua tin nhắn, chúng tôi có kết bạn mà. Tôi mừng rơn, hoàn toàn hài lòng. Khi đã mở ra một cuộc trò chuyện rồi thì việc kéo dài nó rất đơn giản. Vy gửi tên sách cho tôi, tôi cảm hơn, tôi mua về đọc và cứ đọc xong truyện ngắn nào tôi sẽ thảo luận với cô.

Cả hai thảo luận rất sôi nổi, dù thực ra chỉ là tôi cố uyển chuyển để bồi cho cô nói, góp lời mỗi khi cần thiết, chứ những nhận xét của tôi hoàn toàn dối trá cả. Còn để muốn tôi nhận xét thật lòng, tôi chỉ có thể nói ngay là đọc mấy truyện ngắn ấy buồn ngủ gần chết. Cứ thừa nhận là cũng có một hai điểm sáng loé lên, nhưng đã là một tập truyện từ một nhóm bạn viết rồi bỏ tiền ra in chung thì chẳng hy vọng là chúng xuất sắc hay động trời gì. Nhóm viết ấy cũng toàn những tay già lão, chủ đề thì chắc chắn toàn mấy thứ lỗi thời.

“Anh Kha nhạy cảm với văn chương thật đó, em có nhắn tin chia sẻ những suy nghĩ của anh đến các tác giả trong tập truyện này rồi. Mấy chú vui lắm, muốn kết bạn với anh nữa!”

Và thế là tôi kết bạn với họ, lại có thêm mối quen biết. Tôi nhận ra, nếu mình cứ giữ thái độ khen lấy lòng, lâu lâu xen nhẹ vào vài câu bình để trông không quá thảo mai, xong tiếp tục “tình thương mến thương” thế thì chẳng mấy chốc tôi sẽ quen thân được toàn bộ giới văn chương, được họ nâng đỡ dồn dập cũng nên. Sau này, nếu tôi có in ấn gì, họ cũng sẽ “trả nghĩa ân tình” lại, sẽ khen những gì tôi viết. Cuộc đời mà cứ khen nhau mãi thì quá sung sướng.

Chính trong khoảng thời gian này, tôi tìm cách tiếp cận Giai Du. Nhưng ngay lập tức bị từ chối phũ phàng, như những gì tôi đã kể rồi đấy. Giai Du thì luôn luôn bận rộn, phải chấp nhận điều này. Sự xa cách của cậu khiến tôi nhận ra một điều kinh khủng: tôi đã biến thành kiểu người sẽ không bao giờ được cậu lựa chọn. Đi một vòng, rốt cuộc tôi vẫn chưa in được cái gì cả, thậm chí việc xây dựng mối quan hệ trong giới đã ngốn quá nhiều thời gian, khiến tôi chẳng viết thêm được gì cho những tác phẩm còn dang dở. Còn cô Vy, hay những người khác, dù có thân thiết vui vẻ nhưng vẫn chưa ai chủ động bày tỏ là họ muốn nâng đỡ tài năng của tôi.

Sau hơn nửa năm quen biết, cũng đã đi ăn uống với nhau nhiều lần, bỗng đến một ngày Vy bảo cô muốn tiến xa hơn với tôi. Tôi thật sự bị sốc, bản thân tôi chưa bao giờ nghĩ về chuyện đó. Nhưng tôi cũng không dám từ chối, bởi vì từ chối thì xem như sự nghiệp tương lai của tôi đi đứt, bao nhiêu công sức bỏ ra đều hoá thành con số không. Tôi bảo cả hai có thể tìm hiểu nhau cũng được, nhưng chưa cần chính thức. Vy cũng đồng ý, bởi vì cả hai đều đã là người trưởng thành cả, không ai muốn yêu vội rồi chia tay vội như đám con nít.

Tôi đã tính toán khi nào mình đạt được mục đích thì sẽ rút lui ngay, không dây dưa nữa. Song, bỗng nhiên tôi nghĩ có khi nào chính Vy cũng thừa biết tôi tiếp cận cô vì thứ gì, nên cô cứ kỳ kèo giữ rịt lấy, không muốn trao ra ngay, chỉ để giăng bẫy tôi? Suy nghĩ này ám ảnh tôi suốt khoảng thời gian đó và cảm thấy kinh tởm. Tình thế tôi đang rơi vào thật đáng kinh tởm, không khác gì những bộ phim có các nhân vật dùng tiền dùng tình để dấn thân vào showbiz cả, trong khi giới văn chương còn khuya mới bằng được vinh quang và giàu có như showbiz. Nhưng bây giờ nếu tôi nói thật rằng tôi chỉ tiếp cận Vy vì muốn xuất bản, chắc chắn sau này tôi đừng tơ tưởng gì đến chuyện xuất bản nữa.

Thế là cứ tự nhiên chúng tôi hẹn hò với nhau, dù tôi không cảm thấy cảm xúc gì với Vy cả. Thật ra cô cũng là một người phụ nữ rất được, xinh xắn, còn trẻ và tính cách cũng hiền lành hoà nhã. Tôi thì luôn quan trọng tính cách hơn ngoại hình, Vy thì có cả hai. Tôi không rõ vì sao cô lại thích tôi, tôi đoán chừng có lẽ do những cuộc nói chuyện hàng giờ liền giữa cả hai đã khiến cô nghĩ chúng tôi rất hợp nhau, và đôi khi trong lúc thưởng thức nghệ thuật người ta hay như thế, nghĩa là hay dạt dào cảm xúc, nhiều rung động và trở nên nhạy cảm với mọi thứ, dần dà người ta sẽ biến tất cả cảm xúc ấy thành tình yêu đôi lứa. Những tay nghệ sĩ cũng hớp hồn phụ nữ theo cách này, dù họ không phải kiểu đàn ông đẹp mã hay giàu có gì. Dù thế, tôi thừa biết Vy đã nhầm lẫn, bởi vì cái người trò chuyện với cô hàng giờ về những tác phẩm văn chương của bạn bè kia không phải tôi, đó chỉ là cái lốt do tôi cải trang, giống như việc tôi chuyển phong cách viết để vừa ý người khác, hợp với yêu cầu của thị trường vậy. Nếu Vy có yêu tôi thì là yêu chính cái người tôi đã cải trang, còn con người thật của tôi, cô mà biết thì hẳn sẽ thất vọng lắm.

Tuy nhiên, tôi đã nhìn thấy lợi thế trong việc có quen biết trong giới, tôi không muốn mất một nguồn lực. Tôi nghĩ, rồi chuyện sẽ chẳng dẫn đến đâu, đến lúc nào đó chúng tôi sẽ chia tay thôi, tình yêu trai gái thì sớm nở tối tàn là bình thường. Nhưng lại thêm một sai lầm nữa, Vy chỉ càng lúc càng say đắm tôi hơn chứ không có vẻ gì sẽ chán, thậm chí tôi còn thấy cô rất nghiêm túc khi nghĩ về chuyện tương lai. Đề tài nghệ thuật thì cả hai bàn đến thiên thu cũng được, nên là rất khó để cả hai hết chuyện nói với nhau.

Những buổi gặp nhau dày đặc hơn, chúng tôi trở thành hai kẻ không thể thiếu nhau được quá một ngày. Có khi, tôi ghé qua gặp Vy ở lớp học của cô, cô ghé qua cơ quan tôi gửi đồ ăn. Dường như những bạn bè đồng nghiệp của tôi hay học viên của lớp cô đều biết về mối quan hệ của cả hai. Gặp tôi, học viên lớp cô còn gọi tôi bằng “thầy”, một cách vô cùng hiển nhiên. Không ai thắc mắc, bởi vì chuyện trai gái yêu đương ở tuổi này là bình thường nhất trên đời và chúng tôi trông cũng khá hợp đôi. Rốt cuộc tôi trở thành người yêu của Vy thật.

Bấy giờ, tôi cũng đã bớt qua lại với những nhóm viết văn trên mạng, bởi vì các hội nhóm kiểu ấy thường cũng chỉ ồn ào và hào hứng một khoảng thời gian đầu thôi, tầm nửa năm hay một năm trở lên thì bắt đầu rã từ từ, im ắng từ từ rồi. Lão chủ soái thì tiếp tục đi qua các diễn đàn hay vùng khác để “thể hiện”, sẵn tiện mồi chài thế hệ thành viên mới cho nhóm. Những bài đăng thể hiện cá tính của lão bằng mấy kỹ thuật viết nghe có vẻ cao cấp, từ nguồn tiếng Anh hay khoác lớp áo học thuật (như dòng ý thức, nhân vật phân mảnh, cốt truyện phi tuyến tính, tảng băng trôi, khẩu súng của Chekhov, người kể chuyện không đáng tin, nhân vật phản anh hùng – mấy thuật ngữ nghe mới hầm hố làm sao), trong mắt tôi trở nên kệch cỡm và ngu ngốc. Lão cứ như một bóng ma lởn vởn, sửng cồ lên với mọi kẻ đạt được những thứ lão không thể đạt, trù dập hạ bệ tất cả những gì lão cho là thấp kém. Để rồi, mỗi lần bản thảo bị từ chối, lão lại đổ hết lỗi cho cơ chế xuất bản và sự ngu ngốc của nhân loại. Dẫu sao thì, tôi thấy tội nghiệp cho lão nhiều hơn, thấy thương lão nhiều hơn.

Đây cũng là giai đoạn Giai Du tự sát. Vy khóc rấm rứt khi nghe tin, gần như sụp xuống, tôi ở bên cạnh an ủi cô. Tôi cũng hoang mang quá, văn chương của Giai Du rất tiêu cực nhưng không đến nỗi phải như vậy. Tôi nhìn lại tất cả, liệu có dấu hiệu nào tôi đã bỏ lỡ hay không.

Tôi nhớ đến lần nói chuyện cuối cùng giữa mình và cậu ấy, hồi trước cả khi tôi và Vy chính thức qua lại. Giai Du luôn có thói quen đăng những gì cậu viết lên bảng tin, một lần nọ tôi nhắn tin, có hơi thách thức, hỏi cậu về một đoạn văn cậu viết. Nội dung toàn bộ của tác phẩm ấy thì bấy giờ tôi không rõ, vì cậu ta chỉ trích một đoạn rất ngắn thôi, nhưng đại loại là cậu viết về việc một nhà văn trong thời buổi này không có đủ thời gian để sáng tạo, đồng thời những người lo cơm áo gạo tiền thì khó mà theo đuổi nghiệp viết – phải sau này, ngẫm kỹ lại, tôi mới nhận ra đó là quan điểm của nhân vật trong tác phẩm, không phải của Giai Du. Khi đó, tôi bèn chụp màn hình, gửi cậu một tin nhắn với ý đồ gây hấn:

“Vậy ý của Du là những người phải làm việc cực khổ thì không nên viết văn à?”

Lát sau, phải đợi một lát vì cậu chàng rất bận, cậu trả lời, “Đoạn này không liên quan gì chuyện bạn đang nói đâu.”

“Tôi và những người khác phải tốn tám tiếng một ngày đi làm, làm về thì không còn tí sức nào cho việc duy trì sở thích. Tôi biết Du rất may mắn khi có thể viết toàn thời gian, được nhận giải thưởng và còn học Thạc sĩ Lý luận văn học nữa. Có phải Du sở hữu quá nhiều điều kiện tốt mà người khác không có nên mới dễ thành công, còn những người khác phải khó khăn chật vật thì chẳng bao giờ nếm trải sung sướng như bạn. Những người được học hành bài bản, có nhiều thời gian để thong thả viết, nhờ vậy họ mới vượt lên nhanh hơn những người khác chăng?”

“Mình không cảm thấy mình vượt lên ai cả. Những người bạn nghĩ là họ có điều kiện tốt đó, sao bạn biết họ sống sung sướng? Có khi họ cũng có một nỗi đau nào đấy không thể vượt qua, phải chiến đấu với một căn bệnh nào đấy để có thể viết thì sao?”

Đến đây, tôi giật mình. Ý của Giai Du là gì? Nỗi đau, căn bệnh? Ý cậu ta là sao? Tôi xem lại những hình ảnh của Giai Du. Tôi nhận ra một điều tai hại, rằng cậu ấy có gì đó không ổn. Những cái lấp lánh, đẹp đẽ, những thành công đáng ngưỡng mộ, đang che lấp đi một điều gì rất hệ trọng. Sao tôi có thể bảo người khác có nhiều điều kiện tốt hơn mình khi chính tôi không hề sống cuộc đời của họ, không biết gì về họ khi chỉ mới nhìn thấy số liệu thành tích của họ?

Tôi hối hận. Tôi nhắn tin xin lỗi vì trong giây phút đã để lộ thói nhỏ nhen ích kỷ của mình. Tôi hy vọng những điều cậu ấy vừa nhắn chỉ là ví dụ thế thôi chứ không có ý gì khác. Đến giờ, tôi cũng không rõ về những dòng tin nhắn kia, mọi thứ cứ lơ lửng, nhưng lơ lửng không có câu trả lời khẳng định cũng là một đặc điểm của văn chương. Hẳn Giai Du cũng muốn như vậy. Tôi không cố tìm hiểu.

***

Cuối cùng, sau bao cố gắng thì may mắn cũng đã chịu đến với tôi. Hoặc xui xẻo, chẳng thể rõ được. Một hôm nọ, Vy mừng rỡ thông báo cho tôi biết:

“Có một nhà xuất bản nhận bản thảo của anh rồi đó, sẽ còn phải sửa thêm nhưng trước mắt thì họ khá hài lòng về nội dung và văn phong.”

“Dạo này anh có gửi bản thảo cho nhà nào đâu?” Tôi nghi hoặc. Tôi đã rơi vào cơn chán viết khá lâu rồi, suốt khoảng thời gian qua lại với Vy tôi chẳng viết được mấy.

“Một người bạn làm bên nhà xuất bản hỏi em có bản thảo nào thú vị không, gửi cho cô ấy xem thử, em mới nghĩ hay là gửi tác phẩm của anh Kha đi. Anh viết cũng lâu rồi mà chưa có thành tựu gì, cứ vậy sợ anh nản lòng. Em bèn gửi để cô ấy đọc và nhận xét thôi, ai ngờ bên họ cảm thấy nó thú vị thật. Tất nhiên còn phải hỏi ý anh ra sao, chắc anh cũng thấy đây là chuyện tốt nhỉ!”

Tất nhiên là chuyện quá tốt. Tôi reo lên hân hoan và hình ảnh Vy trong mắt tôi đẹp hơn gấp nghìn lần, trong sự rạng rỡ và tự hào về tôi. Tôi ôm chầm lấy cô và nâng cô lên, xoay vòng. Đêm đó là lần đầu chúng tôi ân ái với nhau, trong cơn vui sướng và nhẹ nhõm của tôi.

Nhưng kể từ lần đầu gần gũi thể xác với Vy, tôi luôn cảm thấy một sự bức bối trong cơ thể mình. Tôi luôn có cảm giác tay chân bồn chồn, không thể giữ yên, đồng thời trong bụng ngứa ngáy khó chịu. Có những ngày thức dậy, tôi thấy cơ thể mệt nhoài, chẳng thiết làm gì. Nhờ việc sắp được xuất bản mà tôi có chút động lực quay lại với sở thích viết lách, nhưng mỗi lần viết tôi lại vô thức nín thở để tập trung, phải buông tay khỏi bàn phím tôi mới lấy lại nhịp thở bình thường. Tôi cố hít thở song đến cả việc thở cũng làm tôi mệt mỏi, như thể một phần linh hồn tôi đã bị nghẽn lại, không thể lưu thông qua hơi thở được nữa.

Nhận bản thảo là một chuyện, đến được bước biên tập xong cả và in ấn ra mắt thị trường lại cần một khoảng thời gian nữa. Tác phẩm của tôi bị sửa chữa khá nhiều, nên cần nhiều thời gian. Tầm hơn một năm sau thì sách được ra mắt, cũng là lúc tôi và Vy đám cưới. Người ta chúc mừng rôm rả, đúng là song hỷ lâm môn, vừa có cả thành tích vừa có cả tình yêu.

Nay thì sách tôi đã lên kệ rồi, song chỉ có những người trong giới xuất bản bày tỏ chúc mừng, còn những người bạn tôi quen từ thời hoạt động trên mạng và “giới ngầm” thì chẳng nói tiếng nào. Một phần tôi không qua lại với họ cũng đã lâu, một phần tôi thừa biết họ xem tôi là thứ gì: quá rõ ràng, tôi nhờ công vợ mình và người quen để được xuất bản, chắc chắn trong những nhóm chat đó đang nói xấu tôi tan nát. Cả lão chủ soái nữa, chắc chắn tương lai lão ấy sẽ không tha cho tác phẩm của tôi, lão sẽ mổ xẻ nó ra, tìm đủ mọi chỗ có thể chê hoặc suy diễn để chê, cùng với những đàn em đi theo lão. Nếu lão không nghĩ gì đến tình nghĩa hồi xưa giữa chúng tôi, chắc chắn lão sẽ bêu rếu tác phẩm được in của tôi khắp nơi, diễn tròn cái vai quan toà nghệ thuật của lão.

Nhưng tôi không sợ hãi nữa, tôi đã nhìn thấu mọi cái hạ tiện, xấu xa, độc hại của cả giới ngầm lẫn giới chính thống, tôi đã trải qua tất cả.

Tôi dự định sẽ ly hôn với Vy sau khi cuốn sách kia ra mắt, nhưng khi nó đã ra mắt rồi và chìm nghỉm trong hàng trăm cuốn sách khác, tôi lại phải tiếp tục bấu víu lấy cô để in được cuốn thứ hai, thứ ba. Cho đến khi nào tôi có thể tự mình làm chủ được công việc này, tôi mới có thể độc lập mà viết và in được. Còn không, tôi sẽ phải dựa hết vào uy tín và quan hệ của Vy để phát triển sự nghiệp. Không biết phải thế này tới bao giờ nữa. Những lần khó thở đến ngày một dồn dập hơn. Có vài đêm, tỉnh dậy lúc hai ba giờ sáng trong cơn nặng ngực, chết ngạt, tôi nhìn qua vợ đang ngủ say, bản thân thì không ngừng thở hổn hển. Tôi không rõ mình đã tự đưa bản thân vào tình cảnh gì.

Rốt cuộc làm cách nào để đi trên con đường văn chương chân chính mà không cần phải quỵ luỵ bất kỳ ai như tôi đang làm, hoặc không tự sát ở tuổi hai mươi lăm như Giai Du đã rơi vào, hoặc không trở thành một kẻ thất bại chỉ biết khát cầu sự chú ý như lão chủ soái. Nghĩ lại, có thể tôi là người ổn định nhất trong cả ba người, tôi nên mừng mới đúng. Tất cả con đường đều chẳng thể vẹn toàn, chẳng có gì hoàn hảo. Như văn chương, cũng chẳng bao giờ hoàn hảo.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout