Chương 05. Sa đà
“Chắc ông Nguyễn Du phải trốn gầm giường khi nhác thấy bóng Thuý Kiều ngoài ngõ.”
– Sông, Nguyễn Ngọc Tư.
Khó mà kể lại giai đoạn ấy của cuộc đời tôi. Không phải do mọi thứ quá rắc rối, không phải tất cả, chỉ có một vài rắc rối thôi, nhưng chúng là những rắc rối không dễ để hiểu được. Tôi không mong sẽ có ai hiểu mình hay mở lòng đón nhận sự khác biệt so với những điều từ trước đến nay họ vẫn tin. Nhưng tôi sẽ cố gắng thuật lại mọi chuyện chi tiết và thành thật nhất có thể.
Vào một ngày nọ, tôi đến cửa hàng bách hoá gần chỗ làm và mua một bữa trưa. Tôi đã mất việc trước đó vài ngày, nhưng vẫn đến chỗ làm. Điều này nói ra nghe ngớ ngẩn, nhưng tôi phải thế bởi vì tôi chưa kể cho gia đình chuyện mình, đứa con trai duy nhất của họ, được họ đầu tư bao nhiêu thứ, đã bị sa thải. Sa thải cũng không đúng, đó là một đợt cắt giảm nhân sự. Tôi cùng vài chục người nữa nằm trong danh sách bị cắt giảm. Như thể cả cơ quan là một cái cây rậm rạp và đến mùa họ phải tỉa bớt những cành nhánh dư thừa, tôi là một trong những cành nhánh dư thừa. Làm công thì không thể biết được chủ doanh nghiệp tính toán điều gì, chuyện họ đuổi ai và giữ ai nằm trong một kế hoạch lớn hơn. Con người luôn nằm dưới những kế hoạch và huyễn tưởng, bị chúng chi phối việc sống hay chết.
Gia đình tôi không phải dạng tiêu chuẩn cao, họ chỉ là người cha người mẹ bình thường và có lẽ họ đủ bao dung trước tin con mình mất việc. Vả lại, trong tình huống ấy, người cần an ủi và giúp đỡ là tôi, thế nên sẽ không có lời trách cứ hay sự thất vọng nào làm ảnh hưởng tâm lý tôi cả. Ít nhất tôi nghĩ thế. Nhưng nỗi sợ phải trình bày thất bại cuộc đời mình trước những bậc phụ huynh đặt hết kỳ vọng của họ vào ta vẫn quá lớn, nó ngăn cản tôi chia sẻ về khó khăn ấy. Tôi nghĩ một lúc nào đó mình cũng sẽ phải nói thôi, nhưng phải đợi thời điểm phù hợp. Trong lúc đợi đến cái thời điểm ấy, tôi phải vờ là mình vẫn đi làm mỗi ngày. Chính vì vậy mà dẫn đến chuyện dù không còn việc nữa tôi vẫn đến chỗ làm, mua đồ ăn rồi dạo lòng vòng, đợi đến giờ tan tầm rồi hoà vào dòng xe cộ, diễn như thể bản thân cũng vừa phải trải qua một ngày bán sức lao động mệt mỏi như những người khác. Trong đám đông, sẽ không ai để ý đến việc ai làm gì, có thất nghiệp hay không, tình hình cuộc sống thế nào. Trong đám đông, tôi cảm thấy được an toàn.
Vào những ngày có lịch học, tôi sẽ ghé qua trường thật sớm. Điều đó có thể gây thắc mắc với bạn bè cùng lớp, bởi vì trước đây tôi thường đi học trễ vì phải đợi tan làm, hoà vào dòng người kẹt cứng để đến trường. Nhưng giờ tôi lại đến sớm, điều đó chứng tỏ tôi đã không làm việc ở chỗ cũ nữa. Tuy nhiên, giống như mọi lớp Thạc sĩ khác, mọi người không thật sự quan tâm đến việc ai đến trễ ai đến sớm, thậm chí còn không quan tâm đến nhau, chủ yếu họ chỉ đến dự lớp và tập trung vào bài học, mọi sự sai biệt trong cuộc sống của từng người chẳng hề lọt vào mắt nhau. Cả lớp chỉ quan tâm nhau ở mức vừa phải, sự vừa phải này rất quý giá. Đó là thứ thuộc về thế giới người lớn, nơi mỗi người đều có cuộc sống riêng và mỗi người tự ý thức không xâm phạm quá sâu vào cuộc sống của người khác. Khi còn bé, những đứa trẻ lại dễ gắn kết với nhau với mối quan hệ sâu sắc hơn nhiều.
Tôi vẫn có thể giả vờ đi trễ bằng cách đợi đến giờ tan tầm rồi bị kẹt xe, đến lớp trễ như bình thường. Nhưng nghĩ lại, phải chịu đựng việc kẹt xe trong khi chẳng ai quan tâm việc tôi đến sớm hay trễ là rất mất công, không cần phải đoạ đày mình như thế. Tôi cứ tranh thủ đi trước khi kẹt xe cũng ổn, nạn kẹt xe ở thành phố này quá kinh khủng và nếu có thể tránh được thì nên tránh cho đỡ nhọc người. Tôi đã đủ nhọc với những rắc rối khác rồi. Tuy vậy, cũng không đến mức vô tâm, có vài lần Giai Du đến lớp sớm và thấy tôi đang ngồi trong lớp, mở máy tính xách tay sẵn, cậu bảo:
“Em cứ tưởng mình đến sớm nhất rồi chứ, không ngờ có người còn sớm hơn!”
Nghe cách Giai Du nói, dường như cậu cũng không để ý đến việc những buổi học trước tôi thường đi trễ và nay lại đi quá sớm. Giai Du cũng đến sớm để tránh giờ kẹt xe, nhưng đó là bởi vì cậu ấy không đi làm thật. Ngoài việc đi học Thạc sĩ ra, cậu ấy chỉ còn mỗi việc là viết văn thôi. Điều này rất đáng sợ, tôi không biết bằng cách nào Giai Du lại sắp xếp được cuộc đời mình theo hướng đó. Nhưng sau này, tôi được biết là cậu chẳng sắp xếp gì cả, cậu cứ sống vậy thôi, trở thành một kẻ ký sinh vào gia đình để thực hiện sở thích mà mơ mộng, cho đến khi thành công. Đã đành sau này đúng là cậu có gặt hái được chút thành công thật. Song khi ngồi ở đây để kể lại mọi thứ, chúng ta đều biết chuyện gì đã xảy ra. Chẳng đáng chút nào, những giải thưởng, niềm say mê và tham vọng. Chúng không hề xứng đáng.
***
Hôm đó không có tiết học, tôi bước vào cửa hàng và đến quầy thanh toán để gọi một phần lẩu và một ghim gà nướng. Đó là thức ăn của những người ở đấy, những phần lẩu đóng gói và gà công nghiệp rẻ tiền. Nhưng tôi không thể ngờ rằng mình sẽ bắt gặp ý trung nhân hay định mệnh của bản thân trong một cửa tiệm bách hoá. Khi đứng trước quầy thanh toán và đợi đến lượt, tôi lướt mắt qua tủ kính bày đồ gia dụng. Ngay giây phút ấy, tôi bất ngờ, cảm thấy trái tim mình bỗng rối loạn như bị điện giật.
Trong tủ kính trưng sản phẩm, có một ổ điện mới tinh, hình như vừa được nhập kho và chất lên kệ. Một ổ điện màu trắng pha xanh, nhiều loại chấu cắm. Màu sắc nịnh mắt, đoạn dây điện cũng rất dài, chắc phải lên đến 2 mét rưỡi hay 3 mét. Tôi ngay lập tức chú ý đến món đồ điện ấy. Một dấu hiệu nào đó đến với tôi, một cảm xúc rất lạ. Song, khi đó tôi đã nghĩ có lẽ đây là tính khí ham mua sắm của mình thôi. Giống như bao nhiêu người không cưỡng lại được những món đồ mới tinh và bỏ liên tục vào giỏ hàng để thoả mãn thú tiêu tiền, tôi cũng chỉ đang lên cơn cuồng tiêu tiền. Tôi đâu có cần gì một cái ổ điện trong đời, đúng là một cái ổ điện thì quan trọng với chúng ta thật, nhưng tôi đã có hẳn một bộ ổ ở nhà và hay đem nó theo trong cặp để sử dụng khi cần. Ổ điện kia của tôi có màu đen, ba ổ hai chấu và một ổ ba chấu, vẫn còn dùng tốt và tôi không có nhu cầu mua thêm. Ai lại cần nhiều ổ điện trong đời mình để làm gì.
Tuy nhiên, tôi vẫn bị hút mắt về phía kệ hàng ấy. Không quan tâm gì đến những cái ổ điện khác, tôi chỉ tập trung vào cái ổ mới tinh nào trắng kia. Tôi nhìn giá của nó, hai trăm rưỡi, không phải rẻ nhưng cũng là giá sàn trên thị trường. Đồ điện máy thì sẽ ít có đợt giảm giá. Nó được đặt hơi nghiêng, như đang khoe bản thân ra với những khách hàng vẫn diễu qua chỗ nó nằm mỗi ngày, trong chiếc tủ kính xinh xắn có lẽ cũng được lau mỗi tuần. Ngoài nó ra, vẫn còn một vài bộ ổ điện khác, tôi không nhớ rõ lắm nhưng chúng không có gì đặc biệt và đáng chú ý. Đáng lẽ cái ổ điện này cũng không có gì đáng chú ý, cũng sẽ bị phớt lờ như đồng loại mình. Nhưng chẳng hiểu sao, tôi lại không thể ngừng liếc nhìn qua nó, cho đến khi thanh toán tiền xong, tôi vẫn nhìn. Trong thời gian đợi nhân viên làm phần lẩu, tôi vẫn không rời mắt khỏi nó.
Việc một người đàn ông đứng nhìn một dãy kệ trưng đồ điện máy thì có lẽ cũng bình thường, nhưng tôi lại đứng lâu và nhìn vào tủ kính chằm chằm, tôi nghĩ sẽ có người thắc mắc. Tuy vậy, khi nhìn xung quanh, mọi người không để ý gì đến người khác, họ chỉ đang nhìn mông lung vào một điểm không có gì hoặc nhìn vào điện thoại. Điều này làm tôi yên tâm.
Tôi tự hỏi bằng cách nào người ta có thể sản xuất ra một cái ổ điện hoàn hảo như thế nhỉ, và không biết loại này trên thị trường có bao nhiêu lô cùng kiểu dáng. Nhưng tôi nghĩ, dẫu có cùng kiểu dáng thì cũng chưa chắc những chiếc kia sẽ thu hút mình như chiếc đó. Một sự hoàn hảo độc nhất vô nhị. Có thể còn đến từ cách nó được trưng bày: ở giữa kệ, dựng trên một giá đỡ hơi nghiêng, khoe hết sự đẹp mắt của sản phẩm, có lẽ vừa mới được xé bao bì nên trông còn bóng lộn mới tinh, cả cửa kính trưng bày cũng sạch sẽ, giúp món đồ như phát sáng. Nó nổi bật giữa những anh chị em của mình, như một hoa hậu giành giải cao nhất đang đội vương miện và đứng trên bục, nhận bó hoa và tận hưởng khoảnh khắc vinh quang không gì sánh bằng.
Điều đó không chỉ làm lu mờ những cái ổ điện khác mà còn khiến tôi nghĩ đến cái ổ điện mình vẫn đang sử dụng hàng ngày. Tôi nhận ra cái ổ điện tôi đang sở hữu mới kệch cỡm, xấu xí làm sao. Tại sao từ trước đến nay tôi chưa từng để ý đến vẻ ngoài của đồ đạc mình dùng nhỉ, rõ ràng việc sử dụng những món đồ bắt mắt có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của tôi. Chiếc ổ điện màu đen – mà vào hôm đó tôi lại không mang theo nên chỉ có thể ngầm so sánh trong đầu – thật cũ kỹ và xấu xí khi được đặt cạnh chiếc ổ điện hoa hậu này. Có phải đây là lý do cho tất cả những khó khăn của cuộc đời tôi hay không: không có một cái ổ điện đủ đẹp, không để ý đến kiểu dáng những món đồ mình vẫn sử dụng và nhìn ngắm mỗi ngày?
“Anh ơi, lẩu và gà của mình đây ạ!”
Nhân viên gọi tôi. Giật mình, tôi xoay qua, nhận túi đồ và rời khỏi cửa tiệm. Trước khi đi, tôi còn lưu luyến đưa mắt quan sát dãy kệ và cái ổ điện được đặt ở đó một lần nữa. Có thể tôi đã nghĩ cuộc gặp vừa rồi giữa tôi và món đồ chỉ là một giây phút mơ màng, hoặc chỉ cần đưa mắt đi chỗ khác và nhìn kỹ lại lần nữa, ở một góc độ khác, tôi sẽ nhận ra cái ổ điện ấy cũng chỉ là một món đồ bình thường, không có gì đặc biệt hay gây rung cảm đến thế. Song không phải, đến tận lúc đẩy cánh cửa và bước ra ngoài đường, nhìn vào chỗ quầy đồ gia dụng, tôi vẫn có thể quan sát được toàn bộ vẻ đẹp của nó, dù cả hai đang bị cách ngăn bởi vô số thứ.
Tôi nhanh chóng quên đi cái ổ điện, giống như khi chúng ta bước ra đường và gặp một người hợp gu, ta nhìn ngắm họ nhưng rồi ngay sau đó liền quên họ đi và quay về với hiện thực. Tôi cứ ngỡ mình sẽ quên sạch món đồ và xem nó chỉ như một hình ảnh trong vô số hình ảnh mà mắt tôi vẫn thâu tóm và xử lý mỗi ngày. Quả đúng là vậy thật. Tôi quên nó đi nhưng khi tối đến, tôi lại bị gợi nhắc về cái ổ điện ấy khi cắm sạc điện thoại vào cái ổ điện màu đen của mình.
Tôi âm thầm vạch ra trong đầu những ý nghĩ khác thường. Tôi tự hỏi tại sao mình lại dùng một chiếc ổ điện màu đen từ trước đến giờ, trong khi tôi không có sở thích với những màu tối, tôi thích những màu sáng như màu trắng kia hơn, chúng có thể giúp tôi cải thiện tâm trạng. Tôi sực nhớ ra trước đây cái ổ điện đen này là món đồ dùng chung của cả gia đình tôi, nhà tôi đã luôn sử dụng nó, đến một thời điểm cha mẹ không dùng nữa nên tôi lấy đem về phòng mình, ngoài những ổ điện có sẵn gắn chặt vào tường thì tôi muốn có một ổ điện rời, có thể mang đến những quán nước, trường học để lấy ra dùng mỗi khi cần. Hồi đó, tôi chỉ thấy món đồ bị dư ra không ai dùng nên dùng cho đỡ phí thôi. Tôi không hề nghĩ đến việc mình có thích kiểu dáng, màu sắc và kích cỡ của nó hay không.
Cho đến khi bị một cái ổ điện khác gây kinh ngạc, tôi mới phải nhìn lại cái ổ điện này. Nó đã cũ kỹ lắm rồi, trên vỏ đầy vết xước do cứ bị bỏ lăn lóc dưới đất, chức năng thì vẫn dùng tốt nhưng không thể giấu được những vết tích cũ kỹ theo năm tháng của nó. Cả công tắc nữa, chiếc ổ điện ở cửa hàng thì có công tắc gạt, chiếc nút rất gọn, tinh tế, còn cái công tắc này là dạng bật, không thể tinh tế bằng được. Cả đèn báo sáng cũng không bằng, chiếc kia có một viên đèn báo tròn nhỏ, còn chiếc này thì cái bật công tắc cũng chính là đèn báo, bật lên thì cả công tắc sẽ sáng đèn. Nhưng liệu đây có phải là “điểm yếu” của nó không, hay chỉ đơn giản là chúng có những thiết kế khác nhau và tôi đang đánh giá hoàn toàn dựa trên cảm xúc cá nhân. Mà cảm xúc cá nhân lại bị chi phối bởi sự thiết tha trước những điều mới mẻ, sự phụ phàng với những món đồ cũ.
Nghĩ vậy, tôi ngay lập tức xua đi cái bảng so sánh trong đầu, đúng là không nên làm vậy. Điểm quan trọng ở một món đồ là nó có hữu dụng hay không. Nếu cái ổ điện tôi dùng từ trước đến nay vẫn xài tốt, chẳng xảy ra vấn đề gì thì không có lý do để tôi đổi sang một cái mới, như thế là tốn kém không cần thiết. Dẫu hai trăm rưỡi cũng không phải là một số tiền lớn, song tiết kiệm thì vẫn hơn, việc thu chi này chẳng đáng chút nào.
Hai ngày sau cuộc gặp định mệnh, mẹ tôi đến gõ cửa phòng tôi và hai mẹ con đã có một cuộc nói chuyện ngắn, chủ yếu xoay quanh việc tôi có ổn không sau rất nhiều chuyện đã diễn ra dạo gần đây. Tôi cứ ngỡ bà đã phát hiện ra việc tôi bị mất việc, nhưng bà chưa biết, bà chỉ hỏi tôi về sự sụp đổ giữa tôi và Ánh. Chúng tôi đã hẹn hò với nhau từ năm nhất Đại học, cho đến gần đây, cô bỏ tôi để lấy một người đàn ông khác “có tương lai hơn”. Phải, kể như thế này thì không tránh khỏi sẽ rơi vào mấy mẫu câu của những tay đàn ông thất bại cứ trách cứ phụ nữ ham mê tiền tài vật chất. Ta có thể nhìn thấy những người đàn ông và phụ nữ như thế đầy rẫy ngoài kia, đàn ông thì vẫn chưa đủ cố gắng để đảm bảo cuộc sống gia đình còn phụ nữ thì tìm kiếm một bến đỗ vững vàng.
Ánh cũng vậy thôi, dù ban đầu tôi đã nghĩ cô hẳn sẽ không giống với những người con gái khác. Có thể ban đầu cô không giống thật, nhưng đến một lúc Ánh cũng phải giống thôi, bởi vì con người có quyền đưa ra những lựa chọn tốt nhất cho bản thân và nếu ta không đủ tốt, ta sẽ bị bỏ qua, đấy là chuyện bình thường. Có thể những cặp đôi khác cũng vậy. Mọi người tin rằng chỉ cần tình yêu là đủ, tiền bạc chi phí trong cuộc sống là phụ, ta có thể xoay sở và sẽ được cải thiện trong tương lai nếu cả hai cùng nhau nỗ lực, để rồi hiện thực đập vào mặt họ đau điếng với bao nhiêu thứ phải lo.
Mẹ bảo rằng kể từ hôm dự lễ cưới của Ánh và quay trở về, tôi cứ sống như người mất hồn, luôn luôn trưng ra một vẻ mặt kinh khủng đến mức người ta không thể phớt lờ. Mẹ và cha ái ngại cho tôi, cũng như ái ngại cho mối tình đáng lẽ phải đơm hoa kết trái giữa chúng tôi.
Cha tôi bảo, “Gia đình chúng ta có gì không tốt nhỉ? Con bé Ánh không hài lòng ở điểm nào mới được?”
Phụ huynh hai bên đều biết tình cảm của chúng tôi. Cha mẹ tôi đã cân nhắc và cảm thấy yên lòng khi hai bên có vẻ môn đăng hộ đối, tôi tốt và Ánh cũng tốt. Chúng tôi có thể đồng hành lâu dài, như bao nhiêu cặp đôi khác trên thế gian này, vẫn tìm hiểu nhau mỗi ngày, đám cưới mỗi ngày, xây dựng gia đình mỗi ngày. Chẳng phải thế giới này luôn luôn như vậy hay sao, chẳng phải bao nhiêu thế hệ con người đều làm được chuyện đó hay sao. Có gì mà khó khăn chứ?
Chính vì vậy, thông báo chúng tôi đã đường ai nấy đi rồi, và thông báo Ánh đám cưới – một cách đột ngột – với người đàn ông khác khiến cha mẹ tôi không khỏi bị sốc. Họ luôn tự hỏi rốt cuộc gia đình mình có gì không tốt mà lại “không được lựa chọn”. Mẹ tôi thì hay tự hỏi, liệu có phải bà đã thể hiện điều gì quá đáng, khiến cho Ánh không hài lòng và không muốn có một mẹ chồng như bà, bà có lỡ thể hiện mình hà khắc gì không?
Sau khi xét đi xét lại nhiều lượt, về tất cả lý do có thể xảy ra, cha mẹ tôi chốt hạ rằng có lẽ chúng tôi chẳng có vấn đề gì cả.
“Phụ nữ bây giờ là vậy, không có chuyện họ muốn gắn bó với một người đàn ông bình thường. Họ luôn muốn tìm kiếm những vẻ ngoài bóng lộn, hào nhoáng mà họ cho rằng ổn định, dư dả có thể lo được cho cuộc đời mình. Thời đại thừa nam thiếu nữ mà, phụ nữ bây giờ yêu cầu quá cao!” Mẹ tôi thở dài, bà lý giải sự việc của chúng tôi là do Ánh ham mê sự giàu có và phù phiếm.
Thật ra đúng là Ánh bỏ tôi vì tôi không có đủ kinh tế và lo lắng được cho tương lai cả hai. Cô chia tay với tôi vì lý do ấy, sau đó cưới một người đàn ông hơn chúng tôi năm tuổi, nghĩa là đã bước vào giai đoạn vững vàng và ổn định về kinh tế. Trong khi tôi chỉ mới ra trường, tất nhiên chẳng có gì trong tay và phải xây dựng mọi thứ từ đầu. Mẹ tôi gật gù, bảo vậy thì chỉ cần năm năm nữa khi kinh tế và mức lương của tôi ổn hơn, tôi cũng có thể lấy được những cô nàng sinh viên mới ra trường, bảo chúng nó bỏ mấy thằng người yêu kinh tế yếu của chúng và yêu người đàn ông thành đạt này.
Gia đình tôi tỏ vẻ khinh miệt Ánh, nhưng tôi biết đó là phản ứng để họ tự làm tê liệt nhận thức của mình, như một liều thuốc giảm đau mà thôi. Chúng tôi cho là Ánh không xứng đáng, một đứa con gái ham mê vật chất như thế thì lấy về làm gì, tương lai lỡ mình có sa cơ thì nó sẽ dứt áo ra đi thôi. Họ không xấu, nhưng họ cần phải đổ lỗi. Bởi vì nếu không như thế, làm sao chúng tôi sống nổi với thất bại này?
Thế nên, sau khi tôi dự đám cưới của Ánh, cha mẹ rất lo lắng cho tinh thần của tôi. Không biết vì sao cô lại mời tôi, nhưng tôi vẫn cứ đi thôi. Để rồi sau đó, tôi chìm trong một cơn u uất không thể thoát ra, đến mức bỏ bê công việc mà có khi vì thế tôi mới rơi vào danh sách cắt giảm nhân sự của công ty cũng nên. Nói chung, giai đoạn ấy của tôi là vậy. Nên tối hôm đó, mẹ mới tìm đến và hỏi thăm tình hình. Tôi bảo với bà là mình vẫn ổn, chẳng có vấn đề gì cả, tôi định mở miệng nói luôn chuyện mình đã thất nghiệp ngay khi ấy. Có lẽ không lúc nào bằng tình huống hiện tại. Tuy nhiên, cứ cân nhắc một lúc thì cơ hội lại trôi qua, đến khi đủ can đảm để nói thì cuộc hỏi thăm cũng đã xong. Tôi đành phải tìm một dịp khác, lúc đó chắc chắn tôi sẽ nắm bắt ngay và thẳng thắn trao đổi với họ.
***
Vào những ngày có nhu cầu, tôi sẽ mang cái ổ điện của mình theo trong balo khi ra ngoài, rồi kiếm một quán nước nào đó, mở máy tính xách tay và làm việc. Dù bị mất việc nhưng nhiệm vụ của tôi vẫn còn nhiều, nhất là khi chương trình học Thạc sĩ luôn ở đó, tôi vẫn phải làm bài tập và hoàn thành các yêu cầu của chuỗi học phần. Thế nên dù có rảnh rỗi hơn thì tôi cũng phải sử dụng khoảng thời gian ấy làm việc này việc nọ, không để bản thân hưởng thụ thái quá. Đối với tôi thì việc hưởng thụ có hơi đáng sợ, ngồi không chẳng làm gì cũng đáng sợ.
Những ngày đem ổ điện, tôi đều mang nó theo khi đến lớp, sau đó chuẩn bị cắm và sắp xếp đâu ra đó. Càng sử dụng lâu, pin của máy tính và điện thoại càng bị chai, nếu không có một ổ cắm điện ngay khi cần thì rất bất tiện. Một tiết học của chúng tôi diễn ra suốt hai tiếng, có khi hơn vậy, nên phải có chỗ sạc thì mới yên tâm được. Thời đại này, mọi người cứ như bị trói lại bởi ổ điện vậy, thay vì ngày xưa người ta dùng dây để cột thú vào cọc, thì nay các loại dây sạc chính là cái dây trói ấy, con người không thể đi đâu xa rời cái ổ điện được. Điện trở thành một sức mạnh tín ngưỡng không thể tách rời khỏi đời sống nhân loại.
Có một hôm tôi không mang theo ổ điện của mình vì hôm ấy tôi không có nhu cầu muốn sử dụng máy tính và điện thoại cũng không cần sạc. Giai Du vào lớp và khi không nhìn thấy cái ổ điện màu đen của tôi, cậu ấy hỏi:
“Hôm nay anh Hưng không mang theo ổ điện à?”
Tôi gật đầu, “Nay anh không có việc gì cần nên cũng không mang cho nhẹ cặp.”
Và một điểm từ trước đến nay tôi không nghĩ đến đột ngột hiện ra trước mắt. Tôi luôn mang ổ điện cho Giai Du dùng ké, cậu ngồi ngay trên tôi trong lớp và chúng tôi luôn luôn giữ đúng chỗ của mình, thế nên thường thì tôi cắm ổ điện và Giai Du dùng chung cho tiện. Cắm nhờ ổ điện không ảnh hưởng gì, điện cũng là của nhà trường nên không bị thiệt thòi, chúng tôi cứ sắp xếp như vậy. Nhưng tôi chợt nhận ra, chẳng biết khi nào sự sắp xếp ấy đã thành nề thành nếp, nếu tôi không mang ổ điện theo thì Giai Du sẽ phải làm sao?
Trái ngược với lo lắng của tôi, Giai Du lấy ra cái ổ điện của mình từ trong cặp, xoay xuống nói:
“Vậy nếu anh cần thì sử dụng ổ điện của em đi!” Sau đó cậu gỡ dây và câu điện đến chỗ chúng tôi ngồi. Cái ổ điện của cậu cũng màu đen, nhưng nhỏ hơn cái của tôi và ít ổ cắm hơn, đồng thời ở mỗi ổ cắm lại có một màu khác nhau, trông như đèn giao thông.
“Em có đem ổ điện theo nữa hả?” Tôi hỏi.
“Em luôn mang ổ điện theo mà. Em viết lách ngoài quán nước, với lại máy của em bị hư pin rồi, phải cắm sạc vào mới sử dụng được, rút ra là nó tắt ngay.”
Mỗi người đều có một cái ổ điện bên mình – đến bây giờ tôi mới nhận ra sự thật này. Nhưng khác với những tình huống mình thường, điều đang diễn ra làm tôi bị đánh động và bất ngờ, cứ như nó đã mở ra một chân trời chưa bao giờ tôi nhìn thấy. Tôi bỗng nghĩ rằng việc đưa cho người khác cắm nhờ ổ điện của mình là điều kỳ lạ. Nếu tôi mua cái ổ điện xinh đẹp được trưng trong cửa hàng bách hoá kia, tôi có nỡ lòng nào cho người khác cắm nhờ như cái ổ điện tôi đang có hay như Giai Du đối xử với cái ổ điện của cậu ta không. Tôi trở thành một gã đàn ông “chiếm hữu” hơn bao giờ hết đối với cái ổ điện của mình. Việc dùng chung ổ điện đối với tôi bỗng dưng trở nên khó mà chấp nhận nổi, thật đáng kinh tởm làm sao.
cảm giác kỳ quặc ấy cũng chỉ thoáng qua, tôi không nghĩ nhiều nữa. Nhưng nó ảnh hưởng đến cách tôi nhìn những cái ổ điện, như một thứ thuộc về mình và không thể chấp nhận việc “dùng chung”, “cắm chung”, “xài chung” với bất kỳ ai khác.
Tôi cứ nghĩ rằng mọi thứ sẽ trôi đi, nhưng rốt cuộc tôi lại mắc kẹt ngay ở vấn đề cái ổ điện suốt. Tôi dần không thể nhìn nổi cái ổ điện của mình, trông nó cứ xấu xí dần theo từng ngày, những vết trầy xước trên người nó bị phóng đại lên, hồi trước tôi không để ý nhưng bây giờ thì tôi để ý thái quá. Chuyện tồi tệ đến nỗi tôi không thể sử dụng nó nữa, tôi luôn tránh cắm chui điện vào nó mà cắm vào những ổ điện khác được gắn lên tường phòng, hoặc nếu đi đâu thì tôi sẽ sử dụng bất kỳ ổ điện nào kiếm được, nhưng tuyệt đối tôi sẽ không dùng ổ điện của tôi. Đến cả việc mang ổ điện của mình đi học cũng không còn nữa, Giai Du không hỏi gì về việc ấy, bởi vì cậu đã có ổ điện của mình và dù tôi có mang thì cậu cũng phải mang của cậu thôi, chẳng ảnh hưởng gì. Chỉ có mỗi tôi cảm nhận được thái độ của bản thân với cái ổ điện đen mình sở hữu dường như bắt đầu kỳ lạ.
Một đêm nọ, trong lúc bức bối khó chịu, tôi lên mạng tìm phim người lớn để xem và thủ dâm. Nhưng tôi không cương lên được trước những đoạn clip nóng bỏng mình tìm thấy. Tôi tự nhủ có lẽ bây giờ mình không có hứng thú. Những hình thù da thịt trần như nhộng của cặp đôi nam nữ kia, với tiếng rên của họ, tất cả không khơi gợi chút xúc cảm nào trong tôi. Cứ như đang xem một bộ phim bình thường chứ không phải phim khiêu dâm.
Tôi đành bỏ cuộc, tắt điện thoại, cầu mong mình không bị biến thành một gã lãnh cảm. Thật ra khoảng thời gian đó, tôi không có nhiều nhu cầu sinh lý thật, một ngày cứ trôi qua bình thường cho đến khi kết thúc. Không có gì thì tôi cũng không nghĩa tới, mà mỗi lần nghĩ tới thì lại kèm theo cảm giác đau đớn. Tình yêu, tình dục, tất cả hoạt động liên quan đến đối tượng khác giới đều khiến tôi đau khổ. Dù cố gắng cách mấy tôi vẫn không thể quên được nỗi đau và sự hụt hẫng Ánh để lại trong tôi, nó cứ thúc vào trái tim tôi, khiến tôi mệt mỏi và tất cả cảm xúc tuột không phanh ngay lập tức.
Tôi cũng cho rằng có lẽ mình bị căng thẳng nên mới không cương nổi thôi, khi nào cuộc sống và tâm lý tôi ổn định, tôi sẽ tìm lại được những nhu cầu bình thường. Ban đầu tôi ngây thơ nghĩ như vậy, nhưng rồi suy nghĩ bắt đầu dẫn dắt, tôi nhớ đến cái ổ điện màu trắng được bày bán mình đã bắt gặp. Những đường viền hớ hênh bóng mướt của nó. Những chấu cắm sâu hút, nhỏ nhắn. Đoạn dây dài ngoằng được cuộn lại gọn gàng. Màu sắc nhã nhặn, thanh tao. Cả cơ thể tôi nóng lên và phần dưới tôi cương cứng trong quần đùi. Tôi giật mình, phát hiện bản thân đang làm gì. Một cơn rùng mình chợt đến, tôi không thể hiểu bản thân nữa. Tôi chỉ biết là mình đang cương cứng khi nghĩ đến dáng vẻ của một cái ổ điện, chứ không phải bất kỳ cơ thể phụ nữ mời gọi nào.
Tôi mò tay xuống dương vật và bắt đầu thủ dâm khi nghĩ đến việc cầm trên tay cái ổ điện xinh xắn ấy, xoa những ngón tay dọc theo từng gờ, từng rãnh trên cơ thể trắng ngần, bật công tắc và dùng sợi dây sạc máy tính cắm vào những chấu cắm được phô ra trước mặt mình. Tôi cảm thấy mình thật an toàn khi yêu một đồ vật, chắc chắn cái ổ điện sẽ không phản bội tôi, nó sẽ không tơ tưởng đến bất kỳ sự lựa chọn nào khác vì vốn nó không có lựa chọn. Một khi tôi bỏ tiền ra mua một món đồ, nó sẽ gắn chặt bản thân với tôi, trở thành của tôi hoàn toàn và không có gì thay đổi được sự thật ấy. Tôi cảm thấy yên tâm hơn hẳn khi đem lòng yêu một cái ổ điện. Việc này không có chút điên rồ nào cả, thật ra là ngược lại, tôi cảm thấy tỉnh táo vô cùng. Tôi hài lòng với việc yêu một món đồ bất động hơn là yêu một ai đó không chịu đứng yên.
Cuối cùng, tôi rên rỉ và xuất tinh. Tôi tưởng tượng cảnh mình xuất tinh lên cái ổ điện, khiến nó chìm trong đống nhầy nhụa phóng ra từ cơ thể tôi. Chắc chắn món đồ ấy sẽ đón nhận toàn bộ, không kinh tởm hay né tránh. Tôi có toàn quyền với nó. Điều này khiến tôi hừng hực khí thế.
Khi cảm xúc hưng phấn bắt đầu lắng xuống, tôi cảm thấy có hơi hồi hộp, sợ hãi việc mình làm. Song, tôi không cảm thấy tội lỗi, tôi đang yêu và không có gì phải cảm thấy tội lỗi về điều đó cả. Tôi ngỡ như một phần con người mình đã được mở ra, khám phá và tôi hiểu về xúc cảm của tôi hơn. Tôi không thể chối cãi rằng mình vừa thủ dâm bằng cách tưởng tượng dáng vẻ của một món đồ điện máy. Tôi khao khát nó, bằng cả bản năng lẫn tâm hồn rung động. Tôi quyết chí phải mua nó cho bằng được.
Một khi đã quyết như thế, nỗi sợ mới bắt đầu lan ra trong tôi: lỡ như có ai đó đã mua cái ổ điện ấy trước thì sao. Tôi tưởng tượng đến những tên đàn ông thất bại, xấu xí, không xứng đáng với một cái ổ điện như thế mà lại vô tư bỏ tiền ra mua nó. Hai trăm mấy chục cũng không phải quá đắt và một người bình thường hẳn cũng không quá khó khăn để kiếm được chừng đấy. Vậy thì có khả năng cái ổ điện tôi thầm thương trộm nhớ đã bị thó mất bởi một gã đàn ông chỉ xem nó là một món đồ để sử dụng, sở hữu. Trong khi kẻ như tôi đây khao khát muốn chạm vào nó nhưng lại để lỡ mất cơ hội. Nghĩ vậy, tôi thấp thỏm, sợ đến vã mồ hôi. Chuyện đó không được phép diễn ra. Sẽ không ai yêu món đồ ấy như tôi yêu và nếu rơi vào tay một người không biết xem trọng nó, nó sẽ trở thành một cái ổ-điện-bình-thường trong khi vốn dĩ nếu ở cùng tôi số phận nó sẽ khác hẳn. Bị mua bởi một người không hiểu giá trị của nó, nó sẽ bị đem đi sử dụng bừa bãi, bị vứt lăn lóc đến khi cũ mèm, kẻ bỏ tiền ra mua nó sẽ đem nó ra cho vô số người khác sử dụng cũng nên. Viễn cảnh nào cũng vô cùng đáng sợ, nhất định trên đời chỉ có mỗi tôi yêu nó mà thôi.
Tôi tự dằn vặt mình tại sao hôm trước lại không mua nó ngay lập tức, tại sao lại chần chừ đến tận hôm nay. Giờ đây có khả năng là nó đã bị người khác mua mất rồi. Tôi không ngủ được với vô số niềm hối hận bủa vây. Tôi tự nhủ ngày mai mình phải đến cửa hàng bách hoá, đợi từ sớm và khi cửa hàng mở cửa tôi sẽ xông vào lấy cái ổ điện mình yêu và thanh toán ngay lập tức, với điều kiện nó còn ở đó. Nếu nó không còn thì sao, tôi không dám tưởng tượng. Tôi cố xua cái viễn cảnh đáng sợ ấy đi. Thì ra đây là cảm giác của một người tìm thấy định mệnh đời mình nhưng vì những lý do không đáng mà để lỡ mất vào tay kẻ khác – mà bản thân thừa biết mình mới là người xứng đáng với đối phương hơn.
Lòng tôi đau nhói, sốt ruột. Đến nửa đêm, tôi bật khóc nức nở, tự trách mình hết lần này đến lần khác không biết bao nhiêu cho đủ. Tôi sợ hãi khi hiểu rằng sẽ không có cái ổ điện nào trên đời được như nó, sẽ không có một cái ổ điện thứ hai nào cho tôi xúc cảm như thế này nữa. Một là tôi sở hữu được nó, không thì tôi sẽ chết trong đau đớn và buồn thương với tình yêu héo tàn của mình.
Có lẽ duyên số giữa chúng tôi được Thần Tình Yêu bảo trợ. Ngày hôm sau, dù là chủ nhật, bình thường tôi có thể mặc sức ngủ nướng và không cần dậy giả vờ đi làm, tôi vẫn ra khỏi nhà rất sớm. Đêm hôm trước tôi không hề chợp mắt được tí nào nên khi nhìn đồng hồ và thấy đã bắt đầu ngày mới, tôi rửa mặt vệ sinh và thay đồ đi ngay. Cha mẹ tôi không hỏi, nếu họ có hỏi thì tôi chỉ cần trả lời mình có chút việc là đủ, thường gia đình tôi không hỏi sâu vào chuyện của nhau. Tôi chạy đến cửa hàng bách hoá gần công ty. Bấy giờ, tiệm vẫn chưa mở cửa, tôi phải chờ, khi có thể bước vào được tôi sẽ bước vào ngay.
Tôi sang đường đối diện để mua một ổ bánh mì ăn sáng, kiếm một chỗ để ngồi xuống và nhìn cửa tiệm. Tôi cố dằn cơn căng thẳng trong lòng xuống, thậm chí tôi không có đủ hơi sức để nhai hết ổ bánh mỳ vì nỗi lo lắng giờ đây còn lớn hơn cả đêm vừa qua. Giây phút quyết định đã tới và trong lúc đợi, tôi cứ bồn chồn không thôi. Rốt cuộc, nhân viên bên trong cửa hàng cũng chịu bật đèn lên, dù họ vẫn đang loay hoay chất hàng mới lên kệ, nhưng ngay bây giờ khách có thể vào mua đồ được rồi.
Tôi tiến về phía ấy, mở cửa bước vào trong. Tôi là vị khách đầu tiên trong ngày, nhân viên nghe tiếng mở cửa và tiếng chuông thông báo thì bất ngờ nhìn ra cửa. Thấy tôi, nhân viên cúi chào và tranh thủ chất hết bốn lốc nước suối dưới đất lên kệ, sau đó bước về phía quầy thanh toán. Bên trong có một nhân viên khác kéo rèm đi ra, vừa đi vừa đeo tạp dề. Có lẽ người làm ở đây đã quen với việc có khách bước vào ngay khi vừa mới mở đèn. Tôi nhìn về phía kệ đồ điện gia dụng, tim giật thót một cái khi thấy thứ mình khao khát vẫn còn ở đó. Mọi nỗi lo lắng gần như tan biến hoàn toàn, tôi muốn reo lên hân hoan, xúc động muốn khóc, nhưng bên ngoài vẫn tỏ vẻ bình tĩnh.
Một cái ổ điện khác, ngay bên cạnh cái ổ điện tôi muốn mua, đã bị mua mất. Thật may mắn làm sao khi người khách đó đã không chọn lấy cái ổ điện của tôi. Khả năng cao là đã có nhiều người định mua đúng cái ổ điện tôi muốn mua, nhưng rồi họ cầm lên xem xong lại đặt xuống và chọn cái khác. Tưởng tượng hết những điều ấy, người tôi run lên cầm cập. Có lẽ cái ổ điện này quả thực dành cho tôi, nó vẫn luôn đợi chờ tôi và giống như tôi, nó cũng đã thót tim bao nhiêu lần khi các vị khách hàng khác đến ngắm nghía và suýt thì chọn nó. Chắc chắn bao nhiêu ngày qua đã xảy ra nhiều khoảnh khắc rất kinh khủng, không hề dễ dàng để chúng tôi có thể gặp lại nhau. Chắc chắn đã xảy ra rất nhiều hiểm cảnh và những pha thoát nạn trong gang tấc. Bây giờ thì xem như đã ổn hết rồi.
Tôi mở cửa kính, chạm tay vào cái ổ điện màu trắng. Như có một luồng điện truyền đến, ngón tay tôi giật bắn trong khoảnh khắc giữa chúng tôi không còn khoảng cách nào nữa. Rất dứt khoát, tôi nhấc cái ổ điện ra khỏi kệ, cầm nó trên tay và đứng tại chỗ ngắm nghía cho thoả những ngày xa cách vừa qua. Rồi tôi lại dời mắt ngắm nghía những cái ổ điện khác trong tủ trưng bày. Tôi cố diễn như một người khách hàng cân nhắc trước các mẫu mã sản phẩm, dù trong lòng đã xác định mình đến đây để mua gì. Tôi lật tới lật lui cái ổ điện, ngắm nhìn nó thật kỹ. Món đồ nằm trên tay tôi, tôi có thể cảm nhận được trọng lượng của nó, sự hiện hữu rõ ràng, sống động của nó. Thật khó tin khi vào giây phút này, tôi lại có được thứ mình muốn quá dễ dàng như vậy, sau một trên trằn trọc đau khổ. Đây có thể xem như là một điều may mắn và ưu ái của vận mệnh dành cho tôi.
Tôi mang cái ổ điện ra quầy tính tiền, trên đường đi tôi mua thêm cái gì đó để bản thân trông không quá lập dị. Một kẻ mới đầu ngày đã mua một cái ổ điện thì hẳn là khá kỳ cục trong mắt người khác. Dù sao thì ngoài nhân viên ra trong cửa tiệm chưa có người khách nào. Tôi cố gắng không để lộ sự phấn khích và lâng lâng hạnh phúc trong lòng mình, tôi tỏ vẻ lơ là như thể đây chỉ là một cuộc tính tiền mua bán rất bình thường.
Tôi quan sát biểu cảm trên khuôn mặt người nhân viên phía sau quầy thu ngân, nhưng cô ta trông vẫn bình thản tự nhiên, làm công việc vốn dĩ mình vẫn luôn làm. Cô kéo lê cái ổ điện trên bàn, tôi nghe âm thanh ấy mà xót hết lòng dạ, tính tiền xong, cô gạt nó qua một bên. Tôi những muốn bảo người nhân viên hãy nhẹ nhàng một chút. Dù hành động của cô cũng không phải là quá mạnh bạo gì, nhưng làm ơn hãy cẩn thận với những món đồ mà khách trả tiền mua. Cô lấy túi đựng và tôi thanh toán. Cuối cùng, khi tiếng tờ hoá đơn trồi ra khỏi máy in, xác lập quyền sử hữu của tôi, tôi mới có thể hoàn toàn thả lỏng người. Từ giây phút này trở đi, sẽ không ai có thể chia lìa hai chúng tôi được nữa.
Như một cặp tình nhân vừa có được nhau và trao cơ hội khám phá lẫn nhau, vừa về đến nhà và vào phòng ngủ, tôi và chiếc ổ điện đã ngay lập tức ùa vào đối phương. Tôi cởi bỏ món đồ ra khỏi lớp giấy bọc kín đáo, thùng thình, vướng víu và xấu xí, để lộ ra lớp vỏ nhựa trắng ngần, cứng cáp. Trên đường mang nó về, tôi đã cương lên trong quần liên tục và cố giữ bình tĩnh để kiềm nhục cảm xuống. Bây giờ, khi đã có không gian riêng rồi, chúng tôi có thể có nhiều thời gian để ngắm nhìn cơ thể nhau thật kỹ lưỡng. Cái ổ điện dần lộ ra bên dưới lớp bọc. Tôi cởi quần để được thoải mái, tình hình này tôi không thể mặc gì trên người được nữa, mọi lớp vải đều trở nên bức bối. Tôi quá thèm khát người tình của mình, cũng đã không quan hệ với ai được một thời gian khá lâu rồi, nay mọi thứ dường như muốn trào ra lũ lượt, dù tối qua đã thủ dâm một lần nhưng có lẽ bấy nhiêu vẫn chưa đủ, tôi vẫn khao khát những cái chạm trực tiếp hơn.
Tôi sờ tay dọc thân ổ điện. Cơ thể tôi nóng bừng, run lẩy bẩy. Tôi chậm rãi đưa lưỡi liếm dọc những gờ cong được mài nhẵn tinh tế và sợi dây điện dài, liếm láp phần đuôi ổ cắm, ngón tay không ngừng mân mê những lỗ chấu, gại gại cái phần công tắc. Tôi yêu cái ổ điện ấy đến mức cảm giác như mình không thể chia lìa khỏi nó, tôi muốn cưới nó và sống chung với nó cả đời, như thể tất cả mọi ổ điện trên đời sẽ không thể thay thế được nó. Ổ điện là món đồ ta có thể dùng được rất lâu nếu gìn giữ kỹ, thế nên chắc chắn tôi có thể dành cả đời để gắn bó với một ổ điện duy nhất. Và tôi đã chọn nó làm bạn đồng hành của mình.
Vừa thở hổn hển, tôi vừa cạ dương vật lên thân ổ điện, cảm nhận tính chất bất động cố hữu của món đồ, cả sự cứng cáp đơn điệu. Ngậm đầu ổ cắm và dùng lưỡi nảy bộ phận ấy khắp nơi trong miệng, tôi ngửa đầu lên, rên rỉ theo cơn khoái cảm. Cuối cùng, tôi xuất tinh lần đầu tiên với cái ổ điện của mình. Tôi không dám để tinh trùng lọt vào trong những chấu cắm, như vậy thì sau này sử dụng sẽ rất nguy hiểm, tôi chỉ dám xuất ở bên ngoài. Có lẽ lần sau tôi sẽ đeo bao cao su cho an toàn.
***
Cha mẹ tôi kinh ngạc hơn là đau đớn. Người ta chỉ đau đớn với một nỗi đau hiển hiện rõ ràng, ngay từ cái tên “đau đớn” đã giả định có một cú đánh cú đá nào đó thụi vào cơ thể họ, khiến họ kêu lên oai oái, ôm lấy mình và trào nước mắt. Còn với những tình huống kỳ quặc, dù tai hoạ song là thứ tai hoạ nằm ngoài lẽ thường, nghĩa là chưa từng có kinh nghiệm nào trước đây để bấu víu vào, người ta sẽ không cảm thấy đau đớn. Cha mẹ tôi không hiểu những điều tôi cố gắng diễn đạt.
Chuyện tôi bị mất việc làm đã được tôi chia sẻ trước đó hơn một tuần, với vấn đề này thì gia đình tôi không bày tỏ cảm xúc quá mãnh liệt. Dẫu sao thì thời đại này là thế, việc làm có thể đến và có thể đi bất thình lình, làn sóng giảm thiểu nhân sự bùng nổ và tin tức người lao động mất việc cứ ra rả khắp các bảng tin. Với hai người họ thì chuyện này dễ chấp nhận, vả lại ai cũng biết điều nên làm là an ủi tôi, bảo rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi, tôi sẽ tìm được một công việc khác trong tương lai, chắc chắn sẽ có nơi nhận tôi bởi vì, tại sao không, tôi có trình độ và bằng cấp, tôi có khả năng làm việc. Đây cùng lắm chỉ là một giai đoạn trũng, như bao giai đoạn trũng trong đời một con người bình thường. Thất nghiệp đã trở thành mối lo chung của toàn xã hội chứ không phải mỗi tôi. Tôi biết họ sẽ không quá thất vọng về chuyện mình thất nghiệp, việc tôi chần chừ chia sẻ chỉ xuất phát từ nỗi mặc cảm trong bản thân tôi thôi.
Nhưng chuyện tôi đang hẹn hò với một cái ổ điện thì khác hẳn, chắc chắn là khác. Lần này thì cha mẹ tôi không hiểu nổi, họ nghĩ tôi đang nói sảng. Họ nhìn tôi với cái ổ điện được đặt trên bàn, nghe tôi nhắc lại (tôi đã phải nhắc lại bao nhiêu lần nhỉ, chắc phải tầm chục lần cũng nên) rằng tôi yêu cái ổ điện này, mong gia đình sẽ tác hợp chúng tôi.
Thông tin ấy đáng sợ hơn là đau đớn, chẳng thà đấy là những chia sẻ đau đớn, còn hơn là một điều đáng sợ như thế. Cha mẹ tôi sững sờ, chờ đợi tôi bật cười, vỗ đùi bôm bốp, ngửa cổ cười ầm lên và bảo với họ rằng không, tôi đùa đấy, đừng có làm vẻ mặt nghiêm trọng như vậy, tôi đang trêu mọi người bằng một trò quái ác mà thôi. Nhưng thời gian cứ vậy trôi đi, khẳng định rằng chẳng có một cú lừa nào cả. Hiện thực đang diễn ra và tôi hoàn toàn nghiêm túc.
Dẫu vậy, con người vẫn có quá ít kinh nghiệm để ứng xử trong một tình huống thế này. Sau đó một tháng, mọi thứ dần trượt đi, mẹ tôi đã bắt đầu có thể khóc được khi thấy tôi ôm món đồ kè kè bên mình, như một gã xẩm mù ôm trong lòng cây đàn nhị. Họ cảm thấy sợ hãi thật sự. Họ chắc chắn tôi bị điên rồi và điều này khiến mẹ tôi đau khổ còn cha tôi suy sụp.
“Mẹ biết con bị sốc bởi rất nhiều chuyện. Tâm lý con hiện tại không ổn, điều này xảy ra cũng dễ hiểu thôi… chúng ta đừng vội làm ầm lên. Con chưa cần phải thể hiện mọi thứ quá rõ với người khác, chỉ chúng ta biết với nhau là được rồi… Cha mẹ sẽ tìm cách giải quyết…” Mẹ tôi quay đi, dùng khăn chấm nước mắt.
Có lẽ sẽ dễ hiểu với họ hơn nếu xem xét lại tất cả sự việc đã xảy ra dạo gần đây. Họ tin rằng tôi đã bị tâm thần, lý trí tôi không ổn định và cần được đem đi chữa trị. Bởi vì không thể có một người bình thường nào lại muốn tổ chức đám cưới với một cái ổ điện. Tôi giao tiếp với món đồ như thế nào, hẹn hò với nó và cả tình dục nữa, những việc này họ không muốn biết bởi vì chúng quá đáng sợ. Tôi càng nghiêm túc bao nhiêu thì gia đình càng sợ hãi bấy nhiêu.
“Chính con Ánh chứ không ai cả, nó khiến cho thằng Hưng bị điên rồi!” Cha tôi khẳng định, “Mày luỵ vào con bé ấy làm gì hả con ơi, nó không đáng để mày phải thành thế này đâu…”
Họ rên rỉ, muốn giật lấy cái ổ điện của tôi, người yêu và cũng là người tình của tôi, nhưng tôi gào thét dữ dội quá, họ đành phải nhượng bộ chịu thua. Nếu tôi thích một mụ già, một người đồng giới hay ai đó ít nhất là con người, có lẽ họ sẽ dễ đưa ra phản ứng hơn. Còn một cái ổ điện, chuyện này quá khó nắm bắt, quá khó để lý giải và giống một cơn ác mộng hơn là sự thật.
“Cha mẹ đừng có suy đoán nữa, không liên quan gì đến Ánh hay những chuyện đã xảy ra hết. Con yêu cái ổ điện này và mọi người làm ơn tôn trọng tình cảm của tụi con đi! Con bày tỏ chỉ vì xem cha mẹ là gia đình của mình, chứ không phải để cả hai khóc lóc sợ hãi!”
Tôi cũng khóc ròng rã khi thấy họ cứ chật vật trong đau khổ. Đối với chúng tôi, việc này không khác gì một bất hạnh mà định mệnh giáng xuống. Giai đoạn đó chìm ngập trong những tiếng thở than, ánh mắt phiền muộn và không khí căng thẳng. Tôi không cách nào giải thích cho cha mẹ tôi hiểu rằng chuyện này thậm chí còn không ảnh hưởng gì nghiêm trọng đến ai hết, tôi cứ vậy mà sống đời mình thôi và đây rốt cuộc cũng chỉ là câu chuyện rất riêng của tôi, nếu họ không ủng hộ thì cứ tránh không nhìn cũng được. Tôi không đòi hỏi ai phải thấu hiểu, chấp nhận hay bao dung cho tôi cả, tình yêu là một thứ rất riêng tư và suy đến cùng thì đâu có ai bị tôi liên luỵ gì. Tôi chia sẻ với họ bởi vì tôi không muốn giấu họ về con người mình, và cũng muốn được thoải mái thể hiện tình cảm trong ngôi nhà của tôi, họ không chấp nhận thì tôi cũng đành chịu. Vốn dĩ tôi đâu phải xin ai để có được quyền yêu ai hay thứ gì, đây là một thông báo chứ không phải xin phép.
Tất cả dẫn đến việc chúng tôi không nhìn mặt nhau suốt nhiều ngày, song không phải vì giận dỗi hay bất đồng ý kiến, nếu chỉ là những mâu thuẫn đơn giản thế thì đã dễ giải quyết. Sự kiện này phức tạp hơn rất nhiều và đưa mọi người vào tình thế khó. Tôi cũng cảm thấy có lỗi, khi nhận ra tình yêu và lựa chọn của mình lại gây đau khổ cho những người xung quanh, những người vốn dĩ rất thân thiết mà tôi chỉ mong họ được sống an vui và hạnh phúc. Tôi thấy mình không khác gì là thủ phạm, là căn nguyên của mọi nỗi đau vậy, chắc chắn nhu cầu yêu một ai đó hay thứ gì đó không phải là tội lỗi, nhưng nói thế liệu có đúng không, khi tôi đẩy tất cả mọi người vào bất hạnh này?
Các câu hỏi đặt ra thật khó trả lời, tôi ước gì mình có thể “bình thường” như những người khác.
Tình cảm tôi dành cho cái ổ điện trắng thì vẫn không thay đổi, thậm chí những thử thách trong tình yêu lại càng khiến cảm xúc trong tôi đối với món đồ càng sâu đậm hơn. Tôi quyết tâm chiến đấu đến cùng cho tình yêu của mình, dù người xung quanh có nói gì đi chăng nữa. Tôi biết khao khát của mình là chính đáng.
Bỏ qua những vấn đề kinh khủng từ phía gia đình, tôi khi ấy là một gã đang chìm đắm trong tình yêu. Tôi biết mình đang yêu và được yêu. Tâm lý của một người đang sống trong tình yêu rất kỳ diệu, nó khiến tôi trở nên tích cực và thế giới đột nhiên thật ý nghĩa. Tôi chăm sóc cẩn thận cho cái ổ điện, không dám làm bẩn nó tí ti nào, có vết bẩn là tôi sẽ lau sạch đi ngay. Tôi hôn nó đủ chỗ, cả hai làm tình thường xuyên như một cặp vợ chồng son. Tôi thích sự im lặng của món đồ ấy, sự im lặng rất có ý nghĩa và giá trị chứ không phải hành động bặt căm làm không khí nặng nề. Tôi thì thầm những câu tình tứ với nó, tôi yêu nó nhất trên đời và dường như không thể đặt thêm bất kỳ ai, thứ gì hay cái ổ điện nào khác trong lòng được nữa. Tôi muốn kết hôn với nó.
Những khi mang nó theo để làm việc bên ngoài, tôi sẽ đặt nó lên bàn chứ không để dưới đất, thật ra ban đầu tôi có để dưới đất nhưng sau cái lần bị Giai Du dịch ghế trúng món đồ, tôi quyết định không để nó lăn lóc như thế nữa. Những lần đem ra sử dụng, chúng tôi như đang hẹn hò với nhau, tôi thì thầm với nó những suy nghĩ của mình và nó im lặng lắng nghe với sự trầm tư và thấu hiểu, không cất lời phản bác. Thì ra đấy chính là cảm giác an toàn mà ta tìm kiếm ở người mình yêu, ta chắc chắn rằng đối phương sẽ không bao giờ rời bỏ mình, không bao giờ phản bội, chia tay hay ở bên cạnh người khác. Cái ổ điện thoả mãn được bản tính chiếm hữu đến mức cực đoan của tôi mà đến giờ tôi mới nhận ra, chỉ những đồ vật vô tri mới đem đến cho tôi điều ấy. Tuy ở nơi công cộng thì không thể có những biểu hiện tình cảm rõ ràng, nhưng với tôi cuộc sống như vậy đã đủ để gọi là hạnh phúc, khi ta có được tình yêu và sống hạnh phúc với tình yêu của mình.
Tình yêu đưa con người sang những vùng đất kỳ diệu, dẫn dắt cảm xúc qua đủ mọi cung bậc. Có lúc tôi ôm cái ổ điện và ngắm nhìn nó mãi không chán, cứ cười thầm khi nghĩ đến nó, nghĩ đến việc mình sẽ sử dụng nó để cắm điện, sạc điện thoại hay máy tính. Tôi tung nó lên và chụp lấy nó, nô đùa, cười nói tíu tít, một ngày có thể trở nên ý nghĩa khi ta được sống với tình yêu đích thực của cuộc đời mình. Nhưng cũng lắm khi, những nỗi buồn vẫn len lỏi vào khi tôi nhận ra hoàn cảnh của cả hai quá đỗi khó khăn, tôi muốn khoe tình yêu với cả thế giới dù biết rõ là không được. Cái ổ điện thì như một người yêu hiểu phép tắc, nó chưa bao giờ thể hiện mình tủi thân, buồn phiền. Nó chỉ đáp lại mọi chuyện với một sự im lặng đầy bao dung và thấu cảm. Sự cao thượng của nó càng khiến tôi thấy thương cho nó hơn. Tôi hạ quyết tâm mình phải kết hôn với nó, phải có một lễ cưới cho chúng tôi, để những người ngoài kia biết rằng chúng tôi, dù gặp bất kỳ rào cản nào, vẫn có thể đến với nhau và có một một tình yêu trọn vẹn, một cuộc sống hạnh phúc.
***
Có lẽ Giai Du đã nhìn ra được những điểm kỳ lạ ở tôi. Chuyện là khi đã mua cái ổ điện mới về, tôi vứt ngay cái ổ điện cũ đi. Không hiểu vì lý do gì tôi muốn quên phứt sự hiện hữu của cái ổ điện màu đen cũ, dù tôi đã dùng nó suốt bao nhiêu năm nay, bỗng dưng việc nó xuất hiện trước mắt khiến tôi ngứa ngáy, thậm chí có thể nói là tôi dần dần ghét cay ghét đắng nó. Lẽ ra tôi có thể đem nó cho người khác, hoặc cứ để lại nhưng không dùng cũng được, như thế đỡ phí phạm hơn vì nó vẫn còn xài tốt. Tuy nhiên, một niềm tôi thúc dữ dội trong tôi buộc tôi phải vứt bỏ nó ngay, phải quên rằng nó từng tồn tại, có như vậy thì tôi mới thoải mái sử dụng món đồ mới được.
Kể từ khi có ổ điện mới, tôi mang nó đi khắp nơi, sử dụng mỗi khi cần, nhưng với sự cẩn trọng ghê gớm, đến mức nếu ai để ý thì sẽ thấy sự lập dị trong cách tôi đối xử với món đồ. Bình thường thì chẳng sao, dẫu gì cũng chỉ có tôi với cái ổ điện, chúng tôi có thế giới riêng và không ai chú ý đến cách một người đàn ông dùng ổ điện của mình như thế nào. Nhưng trong một số tình huống, sự nâng niu thái quá của tôi với món đồ bị những người xung quanh phát hiện. Điển hình là chuyện dù tôi có mang nó theo vào lớp học, kéo dây gắn vào ổ cắm và dẫn đến chỗ mình, nhưng tôi không để cho Giai Du hay bất kỳ ai trong lớp được chạm vào nó nữa, dùng ké thì lại càng không. Từ chối thẳng thừng thì có hơi quá, nên tôi dùng băng keo dán những chấu cắm còn lại, chỉ chừa hai cái cho máy tính xách tay và điện thoại của tôi, rồi bảo rằng cái ổ điện cũ của tôi bị mất rồi, tôi đang phải “dùng tạm” cái này và nó bị hư, chỉ còn lại hai ổ chấu xài được thôi. Giai Du chấp nhận rất dễ dàng và không hỏi lại, cậu tự dùng ổ điện của mình.
Mọi thứ diễn ra rất bình thường, chỉ có một lần khi Giai Du vô tình kéo ghế đứng dậy, chân ghế vô tình va phải cái ổ điện của tôi, tôi đã phản ứng hơi thái quá. Tôi hét lên và bảo cậu cẩn thận. Chính Giai Du cũng bị giật mình bởi tôi, cậu xoay xuống nhìn và khi ấy tôi mới nhận ra mình đã lỡ ầm ĩ mất rồi. Song, khoảnh khắc ấy trôi qua rất nhanh, Giai Du xin lỗi và cậu cẩn thận dịch ghế về lại chỗ cũ.
Có lẽ sự kiện đó đã làm dấy lên trong Giai Du chút nghi ngờ. Tôi cảm giác về sau, cách cậu ấy nhìn mình có hơi là lạ, đôi lần tôi cảm nhận được sự để ý từ cậu, như thể cậu đang dò xét để chứng thực một giả định nào đó trong đầu, về việc tôi có đúng là một tên ái vật bệnh hoạn hay không. Tôi sợ cậu đã nhận ra con người tôi.
Một buổi nọ, Giai Du cũng đến lớp sớm, khi đó trong lớp chỉ có tôi và cậu. Như bình thường, chúng tôi chào nhau rồi ai làm việc nấy. Nhưng một lát sau, Giai Du xoay xuống và bắt chuyện với tôi:
“Anh Hưng này, anh có biết trang Văn Plus không?”
Tôi cố nhớ. Cái tên nghe quen quen, hẳn là một trang báo hay tạp chí mạng nào đó. Tôi nhớ mình có một người bạn từng cộng tác với trang mạng văn chương có tên tương tự, nhưng không chắc đấy có phải cái đối phương đang nói tới hay không, tôi chỉ gật đầu đáp lại:
“Nghe tên quen quá, hình như anh có biết.”
“Em có gửi một truyện ngắn cho họ, truyện này em viết lâu lắm rồi. Hồi trước em từng gửi nó tham gia cuộc thi trên báo Văn Nghệ nhưng không được duyệt. Bây giờ em thử gửi cho bên Văn Plus xem sao, thấy người ta bảo trang này thích những bản thảo mới lạ, phá cách.”
“Em viết gì mà phá cách thế?” Tôi cảm thấy hứng thú. Giai Du đáng lẽ không phải là một nhà văn quá phá cách hay nổi loạn. Thậm chí, cậu ta còn thường tỏ ra ngao ngán trước những biểu hiện nổi loạn quá đà của một số bạn bè văn chương.
“Không phải phá cách về hình thức đâu anh. Em là một người có tư duy hơi cũ kỹ về mặt hình thức.” Giai Du bật cười, nụ cười của Giai Du luôn có gì đó kỳ lạ, hơi nhăn nhó, như thể đang cười chính mình thì đúng hơn là cười một thứ gì ở bên ngoài. “Mới lạ về nội dung thì đúng hơn. Truyện ngắn này viết về một người đàn ông đem lòng yêu một cái ổ điện.”
Tôi giật bắn mình. Trong giây phút, tôi tưởng cậu ta đang muốn tuyên chiến với tôi, đang đem bí mật của tôi ra thách thức hay để làm tôi bẽ mặt. Tôi cố gắng bình tĩnh, phải cảnh giác và phòng bị. Nhìn Giai Du không giống như muốn gây sự, cũng không giống đang mưu đồ một việc gì đó. Thật ra Giai Du chưa bao giờ như vậy, ít nhất là theo tôi biết. Ở cậu ta có một thứ mà mọi người hay gọi là “ruột để ngoài da”, không hiểu gì về sự phức tạp của cuộc sống và thậm chí không có ý định tham dự vào phần phức tạp ấy. Nếu là Giai Du, tôi nghĩ bản thân có thể yên tâm, dù chỉ một chút. Song, chắc chắn phải có ý đồ.
“Trời, đúng là nghe lạ thật!” Tôi bật cười, thể hiện rằng mình quá đỗi ngạc nhiên trước cái ý tưởng này. Đó là một ý tưởng lập dị đến mức nếu tôi không tồn tại thì hẳn nó cũng chẳng thể xảy ra được ngoài đời.
“Ý tưởng này không phải em bất chợt nghĩ ra.” Như đang muốn giải trình một hiểu lầm nào đó, hình như sợ tôi nghĩ rằng đây chỉ là một triệu chứng ngu ngốc của những nhà văn cố làm ra vẻ như bản thân mới mẻ và tân kỳ, Giai Du giải thích, “Em đã nghĩ và viết ra nó từ hồi Đại học, mấy năm trước rồi. Bây giờ em chỉ muốn tìm nơi để đăng thôi. Em gửi cho bên Văn Plus. Hôm trước họ vừa thông báo nhận bài cho kỳ mới, em thấy họ khẳng định tiêu chí sẽ ủng hộ những biểu hiện mới lạ nên em nộp thử. Dù nói gì thì cũng có một phần em định lợi dụng sự phóng khoáng của họ để truyện ngắn này được đăng tải và phổ biến.”
“Truyện dài bao nhiêu?”
“Hơn hai nghìn từ. Nói riêng thôi, truyện ngắn em viết thường rất dài, độ dài của truyện này chắc là hàng hiếm.”
Giai Du có hai nỗi bất lực, một là viết truyện ngắn quá dài và hai là viết tiểu thuyết quá ngắn. Cậu luôn nằm ở cái khoảng mà chẳng xếp vào đâu được và chẳng in đâu được, in báo thì không đủ ngắn và in sách thì không đủ dài. Cậu cứ như Kafka khi viết Hoá thân vậy, một tác phẩm mà gọi tiểu thuyết không được, truyện dài không xong mà truyện ngắn thì chắc chắn không thể. Giai Du bị mắc tật nói nhiều những chuyện đáng lẽ nên nói ít và nói ít những chuyện đáng lẽ cần phải nói nhiều hơn. Hồi còn sống, cậu có đôi lần thừa nhận điều này với vài người. Nhưng vào thời điểm ấy, tất nhiên tôi chỉ quan tâm đến nội dung của cái truyện ngắn đang bàn.
“Ý tưởng kỳ dị ấy của em từ đâu ra thế?” Tôi hỏi.
“Thomas Pynchon.”
“Hả, ai thế?”
“Một tác giả em thích. Ông ấy từng viết về những người ái vật.”
Tôi không biết tác giả này, nhưng có vẻ là một người nổi tiếng và có phong cách lạ lẫm. Sau này tôi được biết, cứ mỗi năm đến mùa Nobel, Giai Du sẽ hô hoán khắp nơi rằng đã đến lúc Thomas Pynchon cần nhận giải Nobel rồi, lão tác giả này đã quá già sắp chết đến nơi, Nobel làm ơn tranh thủ đi, vân vân. Ở Việt Nam, tác giả người Mỹ ấy từng được in nhưng chẳng tạo nên gợn sóng nào, vì khó tiếp nhận và quảng cáo quá.
Giai Du tâm sự thêm, “Truyện ngắn đó đã được viết từ lâu rồi, hồi ấy em cũng chưa vững tay lắm, mới tập tành thôi. Đợt gửi đi mà không được in thì em cũng cất xó, không quan tâm lắm. Mấy hôm nay bỗng nhiên em nghĩ đến nó, em muốn tìm chỗ để đăng tải, một chỗ mà có nhiều người xem, chính thống chút càng tốt.”
“Em cứ gửi thử đi, thử thì mới biết được, mà dù có chính thống hay không cũng đâu quan trọng gì.” Tôi nhún vai.
“Quan trọng chứ! À không, ý em là chính vì nó không quan trọng nên mới quan trọng. Em muốn xoá nhoà lằn ranh giữa chính thống và phi chính thống, em muốn chứng minh rằng độc giả đại chúng họ không ngốc nghếch, một độc giả có thể vừa thích đọc những thứ dễ chịu nhưng họ cũng hứng thú đọc những thứ khó nhằn hơn. Ta phải đặt niềm tin vào họ. Ý em là, chẳng phải rất ngốc nghếch sao nếu ta tự dán nhãn mình là khó hiểu, hàn lâm hay phi chính thống trong khi những ranh giới ấy không hề có thật?”
Tôi ngạc nhiên. Dù tôi hiểu ý của Giai Du, nhưng liệu có phải cậu chàng đang có một ước mơ hơi viển vông không?
“Khoan đã, khoan.” Giai Du đột nhiên bối rối, “Em lỡ đi quá xa rồi. Em muốn nói chuyện khác. Cái em muốn hỏi anh là anh có bao giờ tưởng tượng rằng… tác giả sẽ không thể cứu được nhân vật của mình không?”
“Anh không hiểu?” Tôi chống cằm, nghiêng đầu, câu hỏi ấy xộc đến hơi đột ngột và thiếu ngữ cảnh, “Cứu theo kiểu gì: nghĩa thực hay ẩn dụ?”
“Như Lev Tolstoy không thể cứu được Anna Karenina.”
Một câu chuyện kinh điển của văn chương: Lev Tolstoy ban đầu không có tính toán gì về cái chết của Anna Karenina, nhưng khi viết đến đoạn cuối tác phẩm, ông há hốc mồm khi thấy nhân vật của mình bay đến chỗ đường ray tàu hoả, do chính bàn tay cầm bút của ông viết xuống trang giấy.
“Phải, anh nghĩ tác giả không thể cứu được nhân vật, dù họ có muốn cứu thì cũng không thể. Nhân vật không phải là nhà văn, nhân vật là một con người. Nhân vật có cuộc sống của họ và có thể chính tác giả cũng không hiểu nổi họ.” Tôi trả lời và đột nhiên, một cơn đau hay một cú thúc nào đó dấn vào, xoáy sâu giữa ngực tôi, bên dưới hai xương bướm. Tôi đã nhận ra một điều vô cùng khủng khiếp, nhưng giây phút ấy mọi thứ vẫn còn mù mờ, đặc biệt là quá mức vô lý, để tôi có thể nghĩ cho thông suốt ngay.
“Vậy sao?” Giai Du cúi đầu, cụp mắt. Bỗng nhiên, trông cậu ấy ảm đạm đến mức khiến tôi thấy lạ, nếu đây chỉ là một câu hỏi đơn giản về văn chương và sáng tạo nghệ thuật thì chẳng có lý do gì để cậu phải đờ đẫn như vậy.
“Khi em tạo ra một nhân vật, em sẽ cư xử với họ như nhân vật của em, hay em sẽ xem họ là một người bạn, người quen, thậm chí là một người không liên quan gì đến em?” Tôi tò mò hỏi.
“Nếu họ mà chịu sự quản lý của em thì tốt, quá nhiều nhân vật của em đã chết rồi. Nếu em có khả năng cứu họ thì đã không có nhiều người chết đến thế.” Rồi, theo một cách tôi không ngờ, Giai Du sụt sùi.
“Ôi trời, em sao thế này…” Tôi bối rối.
“Không, không… Em ổn…” Giai Du xua tay, hình như chính cậu cũng không rõ vì sao mình lại xúc động thái quá như vậy, “Xin lỗi, em sa đà quá rồi… Không sao đâu anh…”
Sa đà? Tôi không hiểu ý cậu ấy là sao nhưng tôi nghĩ đây là một từ rất quan trọng. Một nhà văn, nhất là như Giai Du, rất dễ sa đà: sa đà vào kể quá nhiều, tả quá nhiều, đào vào nội tâm quá đáng hay nhập tâm vào câu chuyện đang viết quá mức. Sa đà. Cứ như cậu ta thật sự bất lực trong lựa chọn sống hay chết của nhân vật mà cậu đã tạo sinh vậy.
Thở ra hít vào để lấy lại bình tĩnh, rồi Giai Du giải thích, “Đôi khi em có cảm giác các nhân vật của mình đang sống, như anh đang nói chuyện với em, như em đang nói chuyện với anh. Họ chân thực đến mức đó đấy! Nên em rất sợ họ sẽ hỏi tội hay trả thù mình. Thôi, thôi, không nói chuyện này nữa. Điên quá, trông em có giống một tay nghệ sĩ thất thường, mắc bệnh tâm lý và vờ tỏ ra sâu sắc không? Em dị ứng nhất cái đám ấy, vậy mà…”
Tôi nhận ra cuộc nói chuyện này không bình thường chút nào. Dường như có điều gì đang bị giấu đi, có một điểm rất quan trọng mà Giai Du nhất quyết không đề cập đến để mọi thứ được sáng tỏ. Nhưng tôi đã mù mờ nhận ra.
***
Giai Du tự sát sau khi chúng tôi hoàn thành bằng cấp Thạc sĩ. Tôi nhận được tin dường như ngay lập tức, mọi thứ được phát tán rất nhanh và ồn ào một khoảng thời gian. Tôi cứ nhớ đến lần nói chuyện với Giai Du về nội dung của một cái truyện ngắn kỳ lạ mà cậu viết. Tác phẩm ấy cũng không thấy được đăng lên bất cứ trang báo hay trang mạng nào, có lẽ Giai Du đã suy nghĩ lại hoặc khả năng cao hơn là không ai nhận đăng nó, dù là những nơi đã rất phóng khoáng về nghệ thuật đi chăng nữa. Tất nhiên sự phóng khoáng còn phải đi kèm với tiêu chuẩn chất lượng, có lẽ không phải vì nội dung mà do chất lượng của tác phẩm ấy chưa đạt cũng nên. Dù sao thì tôi cũng không thể biết, tôi không bao giờ được đọc nó.
Tôi vẫn còn trăn trở mãi về cuộc nói chuyện hồi ấy. Không rõ bởi vì Giai Du đã nhìn thấy gì ở tôi nên mới bày ra một nội dung truyện ngắn như thế cốt để trêu chọc tôi – hay để nhằm mục đích gì ai biết được. Hay thật ra mọi thứ chỉ là trùng hợp, nghĩa là cách đấy vài năm Giai Du đã viết ra tác phẩm như vậy rồi sau đó chia sẻ với tôi, một người vô tình rơi vào tình huống giống như những gì cậu đã viết. Trường hợp đầu khả năng cao hơn, bởi vì tôi không nghĩ Giai Du hay bất cứ ai lại bỗng nhiên có một ý tưởng như thế, nếu là một con người bình thường – tất nhiên, có thể có khả năng Giai Du đủ bất thường. Nghĩ đến đó, tôi bèn tìm đọc các tác phẩm cậu ấy đã in ấn. Hồi ấy chưa có di cảo gì cả, những tác phẩm chưa in hoặc trôi nổi trên mạng của cậu vẫn chưa được tập hợp, tôi chỉ có thể tìm dấu hiệu trong những sản phẩm xuất bản chính thống. Tôi ngỡ ngàng nhận ra: Giai Du thật sự có khả năng nghĩ được và viết được một truyện ngắn về một người đàn ông yêu cái ổ điện của mình.
Trước đó tôi mới đọc thử hai tác phẩm của Giai Du, không ấn tượng mấy, ý tưởng cũng khá đơn giản. Tuy nhiên, vài tác phẩm sau này, đi sâu hơn, bắt đầu biểu hiện những điều khác. Tôi ngờ rằng khả năng Giai Du nghĩ ra một tác phẩm như đã kể với mình cũng rất cao, dù sự trùng hợp giữa tôi và ý tưởng của cậu quá đỗi đáng nghi.
Sau cái chết của Giai Du tầm nửa năm, tôi và cái ổ điện cũng chuẩn bị hoàn tất cho một đám cưới. Tôi đã kiếm được việc làm mới, chi tiêu dè sẻn cho tương lai, nghĩ đến việc để dành tiền kết hôn với đối tượng mình yêu. Vả lại, ổ điện của tôi không đòi hỏi một đám cưới rình rang hay cao sang gì cả, chúng tôi cứ đặt một tiệc cưới vừa phải là được. Chính vì thế mà công đoạn chuẩn bị diễn ra rất suôn sẻ.
Một hôm nọ, Ánh hẹn gặp tôi và nghe giọng điệu của cô, tôi biết là cuộc gặp này sẽ chẳng có gì vui vẻ. Cô vừa đến đã đặt ngay tấm thiệp mời đám cưới xuống bàn, mệt mỏi ngồi vào ghế. Chưa kịp chào nhau thì cô đã hỏi:
“Anh Hưng, cái này là gì đây, có chuyện gì vậy?”
Ánh muốn hỏi về tấm thiệp đám cưới đề tên tôi và cái ổ điện. Phải, tôi đã ghi hai chữ “Ổ Điện” lên thiệp mời, bởi vì có gì phải giấu chứ.
“Em nhận được thiệp rồi à, hôm đó em có đến dự được không?” Tôi hỏi.
Đối phương nhìn tôi vẻ cắc cớ, tôi nhận ra cô cũng cảm thấy rất có lỗi với những điều đã xảy ra. Không phải việc chuyện tình của chúng tôi kết thúc không có chút tác động nào đến Ánh, thật ra ngược lại, cô có những dằn vặt riêng trong quyết định chia tay tôi và kết hôn với người đàn ông khác. Đến bây giờ tôi mới nhận ra điều ấy. Tuy nhiên, lòng tôi nay đã hoàn toàn nguội lạnh với cô, thậm chí còn tự hỏi mình tại sao hồi đó tôi lại thích người phụ nữ này nhỉ, hay từ trước đến nay tôi có thật sự thích Ánh không?
“Anh vẫn còn căm ghét em vì chuyện đó sao, chuyện đã qua lâu rồi mà!” Ánh gần như rên rỉ, nhìn tôi van lơn.
“Anh chẳng hiểu em đang nói gì cả.” Tôi nhíu mày, như thể cô gái vừa thốt ra một điều nghe rất ngu ngốc.
“Em biết rồi, anh chỉ muốn quậy banh mọi thứ lên thôi. Anh điên rồi, anh Hưng!”
“Ánh, anh không hiểu em có ý gì?”
“Chuyện này là sao?” Cô lại nhấn vào tấm thiệp cưới màu hồng phấn, “Anh muốn kết hôn với… Khoan đã, đây là nó đúng không, cái ổ điện của anh đây à?”
Đoạn, Ánh chỉ vào cái ổ điện được đặt trên bàn. Tôi đã mua một lớp nilon quấn bên ngoài để bảo vệ làn da của người tình không bị lấm bẩn, đồng thời dán những hình xinh xắn lên nó, còn thắt một chiếc nơ xinh xinh cho đoạn dây điện nữa. Song, tất cả không làm Ánh ấn tượng lắm, hoặc có thể nói là ấn tượng theo hướng hết sức tiêu cực. Nhìn biểu cảm của cô là biết, tôi đã quá quen với thứ biểu cảm này từ mọi người xung quanh.
“Đúng rồi, đây là người anh sắp kết hôn cùng.” Tôi đưa tay sờ dọc thân ổ điện, như đang xoa đầu một nàng công chúa.
“Anh dừng lại đi!” Ánh tức giận và tôi bất ngờ vì điều đó, “Anh muốn trả thù em à? Hay anh bị điên rồi, anh Hưng, có phải là lỗi do em không?”
“Em chẳng có lỗi gì hết.” Tôi nhíu mày nhìn cô, gần như đe doạ.
Một lần nữa, Ánh chỉ vào dòng chữ đề tên cô dâu chú rể trên tấm thiệp, như đấy là bằng chứng duy nhất cô có, “Một người nghĩ ra trò này thì chỉ có thể là bị điên hoặc muốn gây phiền phức cho người khác. Anh muốn làm gì?”
“Anh không bị điên.” Tôi phản bác, “Cũng không gây phiền gì hết, em muốn đến thì đến, không thì cứ cáo bận, chẳng sao cả. Bởi vì đám cưới của em có mời anh, nên bây giờ anh mời lại cho có lễ thôi. Đã có nhiều người từ chối đến rồi, thêm em nữa cũng không sao.”
“Phải, anh thừa nhận rồi, là do em đã mời anh đến đám cưới nên giờ anh mời lại, anh bày ra trò này để mọi người nhắm vào em.” Cô tự chỉ vào ngực mình, “Để mọi người đoán già đoán non lý do anh bị tâm thần là từ chuyện của tụi mình. Hôm trước cha mẹ anh đã gọi điện cho em và kể hết rồi đó, họ bảo con trai họ bị điên và dù không nói ra, họ ngấm ngầm bảo khéo rằng vụ em cưới chồng làm con họ điên tình!”
“Các người cứ kể những chuyện nhảm nhí của các người.” Tôi ôm lấy ổ điện vào lòng, “Đừng có xúc phạm anh và tình cảm của anh, còn ngay lúc hôn thê anh đang ở đây nữa.”
“Ôi trời ơi, tôi điên mất!” Ánh như thể muốn bứt trụi tóc trên đầu.
“Xúc phạm tụi anh nhiêu đó đủ rồi, em về đi! Hôm tổ chức lễ cưới em đừng đến, không cần đến nữa!” Tôi đưa tay bọc lấy cái ổ điện như vỗ về, tôi sợ nó tổn thương trước thái độ của người yêu cũ tôi.
Ánh nhìn tôi, vừa khó hiểu mà cũng vừa xót xa cho một điều gì đó. Đoạn cô nói, câu nói gãy ngang vì một cơn nấc nghẹn xen vào giữa:
“Hồi trước anh không có như thế này. Chuyện chúng ta không thành không phải lỗi do ai cả, anh trách em cũng được… Nhưng đừng nuôi dưỡng oán hận, không giải quyết được gì hết.”
“Em đừng có nói nhảm nữa. Bây giờ anh đã tìm được hạnh phúc của mình. Khi em tìm được hạnh phúc của em, anh đâu có ý kiến hay có lời trách cứ nào. Nhưng đến lượt anh tìm được tình yêu đời mình thì em xen vào móc mỉa, chia rẽ. Em mới là người thay đổi, hồi trước em đâu có xấu tính và hiểm độc như thế này!”
Ánh câm lặng, thúc thủ, không thể đáp lại bất cứ lời nào. Có lẽ cô thấy những gì tôi nói cũng đúng, rõ ràng là vậy. Tại sao chẳng ai xem đây đơn giản chỉ là một tình yêu bình thường, một tình trạng rất bình thường và tôi rất bình thường? Tại sao lại ngăn cấm tình yêu của chúng tôi?
***
Nghĩa gặp tôi hai ngày sau đó, cũng tiếp tục là một lời từ chối không đến dự đám cưới, cũng thẳng thừng y hệt những người khác. Với tay ấy thì không có gì mà không nói thẳng được, chưa kể một vụ như thế này thì y cũng chẳng cần phải kiêng dè.
Y mở một trang tạp chí người mẫu áo tắm, vỗ phành phạch, nói với tôi như người thầy đang giảng giải cho học trò hiểu về một nguyên lý khoa học:
“Một người đàn ông bình thường sẽ thích những cô gái thế này! Mày xem, đây mới là người mày nên yêu, muốn lấy làm vợ và muốn chung sống cả đời, nghĩa là một con người thật! Mày không hiểu chỉ vì mày không muốn hiểu, tao chẳng thể thuyết phục được một người không muốn tiếp thu hay lắng nghe người khác.”
Tôi nắm chặt lấy cái ổ điện trên bàn, như một người đàn ông nắm chặt tay người yêu để được tiếp thêm can đảm, “Sao mày lại nói như vậy trước mặt hôn thê của tao? Nếu tao nói trước mặt vợ mày là người đàn bà này không xứng đáng để mày lấy làm vợ, mày sẽ cảm thấy thế nào? Đừng có xúc phạm người khác bằng mấy lời mà mày không muốn người khác nói ra với mày!”
“Đừng có so sánh cái kiểu đấy, con người không phải đồ vật và đồ vật không phải con người.” Nghĩa đập cuốn tạp chí xuống bàn, hình cô người mẫu mặc bộ áo tắm táo bạo phía sau phông nền bãi biển vừa cười vừa nhìn cuộc đấu khẩu của chúng tôi. “Mày nói đi? Chẳng lẽ mấy cô nàng người mẫu này lại không khiến mày rung động bằng một cái ổ điện, thật vô lý!”
“Chẳng có gì vô lý ở đây hết.” Tôi phất tay, “Làm gì có chuyện nhìn ảnh ai đó trên tạp chí là liền yêu ngay, mày cũng đâu thể yêu mấy cô này được, mày chỉ thích ngắm ảnh họ để thoả mãn bản thân, ai cũng vậy cả. Nhưng để yêu và cưới một người, đó là chuyện khác hẳn và với một tâm thế khác hẳn!”
“Chuyện này còn không đáng để tốn công tranh luận, bởi vì, trời ơi, ai lại tranh luận việc có nên cưới một cái ổ điện hay không? Thật kỳ quặc, tao còn không nghĩ một ngày mình sẽ được mời làm phụ rể bưng mâm cho một đám cưới như này!”
Đột nhiên, đang nói giữa chừng thì Nghĩa chồm tới, định giật lấy cái ổ điện trên bàn hay muốn kéo nó về phía mình. Tôi hốt hoảng, dường đã nhận ra âm mưu của y nên vội vàng tóm ấy món đồ, giữ rịt trong lòng. Nghĩa giật thót, như thể chính y chứ không phải tôi là người có quyền sợ hãi và giật mình trong tình huống đang diễn ra, như thể y chẳng hề là gì sai song tôi lại phản ứng quá lố. Tôi trừng mắt nhìn y. Như đứng trước họng súng và món đồ trên tay tôi là một khẩu súng đầy đủ đạn dược, y giơ tay lên, phân bua:
“Tao chỉ muốn mượn để sạc điện thoại thôi, đừng có phản ứng như vậy!”
Nghĩa nói với tông giọng thể hiện rằng mình chẳng làm gì sai, sau đó còn lấy dây sạc trong cặp ra như muốn khẳng định lời mình.
“Mày bị điên à?” Tôi nhấn giọng, đe nẹt, “Ai lại mượn người yêu của bạn mình, mày bị gì vậy? Có biết hành xử vừa rồi của mày gớm ghiếc đến mức nào không? Tại sao chẳng ai tôn trọng tao và mối quan hệ giữa tao với cái ổ điện này vậy? Nếu tao mượn vợ mày thì mày cảm thấy thế nào? Còn đòi cắm cục sạc gớm ghiếc đó vào trong ổ điện của tao nữa, thằng mất dạy!”
Nghĩa sững người trước tràng chửi rủa của tôi, có lẽ y không tin được bản thân lại bị chửi đến mức đó chỉ vì xin sạc nhờ điện thoại, dù tính chất của tình huống này khác hẳn. Đến cả Giai Du hồi xưa luôn dùng ké ổ điện cũ của tôi mà tôi còn từ chối không cho dùng ổ điện mới, thì tất nhiên Nghĩa cũng không được phép. Ai lại cho phép một chuyện thế này?
“Tao…” Y thở hắt, chùng vai xuống và quyết định không đôi co nữa, “Được rồi, mày bình tĩnh lại đi Hưng, được rồi. Cứ giữ lấy. Nhưng cẩn thận đó, mày ôm nó vào lòng vậy nguy hiểm lắm, nó đang cắm điện và bật công tắc kia kìa!”
Khi đã chắc chắn rằng Nghĩa sẽ không đụng vào đồ của tôi nữa, tôi đặt cái ổ điện trở lại bàn. Tôi cảnh cáo y:
“Tao chỉ cần một sự tôn trọng tối thiểu dành cho cuộc sống và cảm xúc riêng của mình thôi. Mày đừng có nói ra mấy nhận xét sỉ nhục người khác!”
“Rồi rồi, tao không nói nữa, nói nhiều cũng chẳng thay đổi được gì.” Nghĩa nhún vai.
Nhưng tôi biết y không muốn bỏ qua, y chỉ đang cố hoà hoãn, giống như tất cả những người khác âm thầm liệt tôi vào hạng tâm thần, sang chấn gì đó. Không ai muốn tin rằng tôi hạnh phúc, họ chỉ tin tôi đang giả vờ để tự thao túng chính mình, nghĩa là đang không khác gì một kẻ điên. Sau đó, khi khoanh tay nhìn chằm chằm người-yêu-dấu của tôi, rồi lại nhìn sang tấm thiệp cưới tôi gửi, Nghĩa bỗng nêu lên một thắc mắc:
“Một cái ổ điện thì không biết nói?”
“Hả?” Tôi nhíu mày.
Như có một chân lý từ cõi hư vô xộc đến, đôi mắt y sáng bừng, y gần như nhảy lên khỏi ghế, “Đúng rồi, một cái ổ điện thì không biết nói, cũng không biết đưa ta những dấu hiệu.”
Tôi nhìn y và một thứ gì đó khiến tôi ngứa râm ran trong bụng, lòng bất an.
Nghĩa chỉ tay vào cái ổ điện rồi đưa ngón tay đó chỉ vào tôi, “Hưng, mày đang ép hôn thứ mà mày yêu! Mày yêu gì cũng được, yêu ai cũng được, giới tính nào cũng được, màu da gì cũng được, sao cũng được, nhưng cái cơ bản nhất là sự đồng thuận. Đúng không nào, tình yêu phải đến từ hai phía, từ sự đồng thuận. Mày đã cầu hôn cái ổ điện loè loẹt của mày chưa? Nó có nói đồng ý không, hay nếu không nói thì nó có gật đầu đồng ý không?”
Tôi ngớ người, trợn mắt nhìn thằng bạn với dáng vẻ của một tên bị dồn vào thế bí. Tôi cảm thấy xấu hổ. Tôi đã bị bắt bài. Đúng là tôi chưa từng nghĩ tới chuyện này, tôi cứ dùng những lý lẽ bảo mọi người xung quanh phải tôn trọng tình yêu của mình, nhưng sao đây có thể là tình yêu nếu chỉ có một chiều. Không, tôi vẫn tin là cái ổ điện kia cũng yêu mình, nhưng sao tôi biết điều đó ngoài một thứ mơ hồ là “cảm giác”. Cái ổ điện không thể biểu hiện điều ấy. Mà tình yêu chỉ đến từ một phía thì chỉ là tình cảm đơn phương. Chưa kể, tôi còn muốn kết hôn với nó mà không có sự đồng ý nào từ nó. Nếu tôi nhất quyết cưỡng ép cái ổ điện kết hôn với mình, không quan tâm ở phía nó cảm thấy thế nào, vậy sao có thể gọi là tình yêu được?
“Cứ xem như cái ổ điện thì không thể ký giấy đăng ký kết hôn, mà thời đại này những loại giấy tờ ấy không quá quan trọng. Nhưng vẫn còn một vấn đề cơ bản hơn: cái ổ điện này liệu có muốn kết hôn với mày không, hay tao hỏi thằng là ngay từ đầu nó có thật sự yêu mày không, hay mày chỉ đang cưỡng ép nó?” Được đà, tay Nghĩa lại tiếp tục luyên thuyên, song chữ nào hắn nói ra cũng đều trúng ngay chỗ hiểm hóc nhất.
Tôi nhận ra, từ đầu đến cuối tôi chỉ xem cái ổ điện ấy là một món đồ, tôi mặc định nó yêu tôi vì tôi yêu nó. Nhưng rõ ràng như vậy không đúng. Bây giờ tôi còn có thể phản bác lại gì nữa đây?
“Tao… tao chắc chắn là cái ổ điện này yêu tao… Tao chắc chắn… Bởi vì tao yêu nó nhiều đến thế cơ mà, sao nó có thể từ chối kết hôn với tao được?” Tôi chống chế trong bất lực.
“Chưa chắc!” Âm thanh bật tanh tách khỏi miệng Nghĩa, y vô cùng hào hứng khi nắm thóp được người khác. “Ngay tại đây, mày quỳ xuống cầu hôn nó đi, xem nó có biểu hiện gì không, hay nó chỉ trơ trơ ra đó! Nếu mày không cầu hôn và nó không đồng ý, vậy rốt cuộc cái đám cưới mà mày đã chuẩn bị bấy lâu nay chỉ là ảo tưởng của riêng mày thôi!”
Nỗi hổ thẹn xâm chiếm lấy tôi, khiến tay chân tôi nóng bừng. Nhưng lớn hơn cả, tình yêu đã chiến thắng, bằng một mãnh lực kỳ quái không biết từ đâu ra, chắc là vì sự thúc đẩy của trái tim một kẻ đang say đắm, tôi đứng bật dậy, tuyên bố:
“Tao chắc chắn nó sẽ đồng ý, tao chắc chắn! Không thể có chuyện nó không muốn kết hôn với tao được! Tao và cái ổ điện này có sự kết nối cả thể xác và tâm hồn rất lớn lao! Các người sẽ không hiểu được, sẽ không bao giờ hiểu được sự vĩ đại của tình yêu.”
Rồi, trong khi Nghĩa trố mắt và kêu lên oai oái, những người xung quanh nhìn về phía bàn chúng tôi đang ngồi, tôi quỳ xuống. Tôi thốt ra lời cầu hôn cái ổ điện màu trắng xinh xắn ấy.
Trời không phụ người có lòng, tình yêu của tôi đã cảm hoá được sự vô tri của một món đồ điện gia dụng. Tôi đã đánh thức được nàng công chúa ngủ mê man. Bóng đèn tính hiệu đỏ trên thân ổ điện chớp nháy, kèm theo tiếng loẹt xoẹt vang lên rất khẽ từ bên trong những lỗ chấu. Đó là dấu hiệu. Chính là dấu hiệu.
Tôi nhảy cẫng lên, ôm lấy món đồ, cười vào mặt Nghĩa, “Mày thấy chưa, đó là dấu hiệu, nó vừa ra dấu đấy!”
“Vừa rồi chỉ là bị chập điện thôi!” Nghĩa hét lên, khuôn mặt không khỏi hoang mang.
Nhưng đã quá muộn. Với vai trò một người đàn ông vừa cầu hôn vị hôn thê của mình, tôi đặt lên cái ổ điện một nụ hôn ngấu nghiến trong trạng thái lâng lâng cảm xúc. Sau đó, chầm chậm, tôi đưa lưỡi vào trong một chấu cắm.
Thế giới nổ tung.
Tôi cảm giác toàn bộ các thớ cơ trong người co rút lại. Mọi thứ trước mắt tối sầm và chỉ còn văng vẳng bên tai tôi những tiếng kêu thét như thể cổng Địa ngục đã được mở ra.
***
Đó không phải là thứ cảm giác “có luồng điện chạy qua người” như các nhà văn hay dùng để miêu tả nụ hôn mà cặp đôi nam nữ chính trao nhau. Chỉ là một hiện tượng thuần vật lý: tôi bị điện giật.
Khi tỉnh dậy trên giường bệnh, gia đình và người thân đã kể cho tôi những gì xảy ra sau nụ hôn. Tôi ngã ra đất, co giật. Rất may bằng cách nào đó Nghĩa đã rút được dây điện ra khỏi ổ cắm mà không bị điện giật lây. Có một người trong quán chạy đến sơ cứu, ép tim cho tôi. Tôi thoát chết trong gang tấc, thật ra lúc được đưa đến viện thì tim tôi đã ngừng đập rồi. Người ta làm mọi cách có thể để cứu tôi. Khi được đưa đến bệnh viện, các bác sĩ dùng máy sốc điện (lại điện) để bắt tim tôi đập trở lại. Giây phút ấy rất nguy kịch, rất căng thẳng, nhưng giờ thì mọi chuyện đã ổn.
Cái ổ điện của tôi thì bốc khói, tia điện phóng ầm ầm và lớp nhựa trắng kiều diễm bị cháy xém. Người ta đã đem bỏ nó, lý do là vì nó đã “chết” và tránh cho tôi bị đau lòng nếu nhìn thấy thân thể tàn tạ của nó sau vụ tai nạn. Đây có thể xem như một hành động nhân văn.
Ít ra vào những giây phút cuối, nó đã cố bảo rằng nó yêu tôi, nó đã cố thể hiện tình cảm của mình. Bấy nhiêu với tôi là đủ. Chúng ta hạnh phúc không phải vì có thể sống bên nhau mãi mãi, mà vì trong một giây phút chúng ta biết yêu và được yêu.
Có một chuyện tôi không kể với ai, đó là trong thời gian mê man, tôi đã nhìn thấy Giai Du. Không phải cậu ấy đứng ở thế giới người đã khuất và chờ đợi tôi như trong những bộ phim, mà là Giai Du ngồi trong căn phòng tối, trước máy tính, trên màn hình là một trang bản thảo. Cậu ấy cứ lặng lẽ gõ phím, không hề nhận ra sự tồn tại của tôi. Và mỗi một dòng được viết ra, tôi cảm nhận được hình dáng, đường nét, màu sắc trên người mình càng lúc càng rõ ràng hơn. Sau đó, Giai Du đứng dậy, vươn người, thở phào nhẹ nhõm. Trên màn hình, bản thảo dừng lại ở dòng đề ngày tháng năm hoàn thành, nghĩa là tác phẩm ấy đã xong xuôi cả.
Tôi nhìn vào và thấy truyện dừng lại ở đoạn người đàn ông bị điện giật, lăn ra đất. Về sau thế nào thì Giai Du không kể, cậu quyết định kết thúc câu chuyện ở chỗ ấy. Nếu muốn nó được tiếp tục, nhân vật phải lựa chọn: sống tiếp trong nỗi mất mát của tình yêu hay nguyện chết cùng tình yêu của mình?
Có lẽ Giai Du không thể lựa chọn được. Hay nói đúng hơn, cậu ấy không thể kiểm soát được nhân vật sẽ chọn gì. Cậu không hiểu hết về nhân vật của mình và có lẽ cảm thấy không nhất thiết phải cố hiểu. Nhân vật trong tác phẩm của Giai Du là những con người không dính dáng gì đến cậu, họ là những người bạn chứ không phải chính cậu.
Tôi phải tự đưa ra lựa chọn cho cuộc đời mình. Tôi đã lựa chọn xong. Khi ngẩng lên, tôi thấy Giai Du uống một chút nước rồi lên giường, chùm chăn kín đầu. Cậu ấy không tắt máy tính mà cứ để vậy rồi đi ngủ, để máy tự tối lại. Tôi nhìn tấm chăn phủ lên người cậu, trông như một ngọn đồi tối tăm và đơn độc. Nỗi mất mát thấm vào trong người tôi, bỗng nhiên tôi thấy mọi thứ thật buồn. Giai Du vẫn ở đây, vẫn sống, nhưng tôi không thể nán lại thêm với cậu được nữa.
Sau sự kiện kinh hoàng ấy, tim tôi cũng bị ảnh hưởng phần nào, tuy không gây ra những bệnh nguy hiểm nhưng có vài dấu hiệu đủ để tôi cảm thấy vết tích của luồng điện tai ác vẫn còn vướng vất trong cơ thể mình. Đôi khi tôi cảm thấy nặng ngực, nhói lên ở vùng xương bướm, hơi thở khò khè, oxy qua mũi cứ thất thoát dần. Những lúc xảy ra tình trạng này, tôi phải cố lắm mới có thể hít thở được. Cũng có đôi khi, tôi lại nghĩ về Giai Du, có thể là vu vơ hay do có một thứ gì gợi nhắc tôi nhớ đến cậu ấy.
Sau này tôi cứ tự hỏi, không biết rốt cuộc tại sao khi giữa cơn thập tử nhất sinh, mình lại có một giấc mơ kỳ lạ như thế. Hay bởi vì tôi có ấn tượng đặc biệt với Giai Du và cuộc nói chuyện hồi trước, sau đó mọi thứ đã kết nối lại trong vô thức theo những logic hết sức kỳ quặc để hình thành nên giấc mơ nọ. Nhưng thôi kể vậy là đủ rồi.
Bình luận
Chưa có bình luận