Chương 03. Mạch truyện
“Tất cả các nhà thơ, kể cả những người tiền phong nhất, đều cần một người cha. Nhưng đám nhà thơ đó sinh ra là đã mang phận mồ côi.”
– Thám tử hoang dã, Roberto Bolaño.
Tôi nhận tin Giai Du tự sát trễ tận vài tháng, nhờ đọc được trên một trang báo tiếng Việt do người quen làm chủ bút.
Tôi biết, lẽ ra tôi phải có thông tin sớm hơn, thậm chí phải biết ngay lập tức khi điều đó diễn ra ở Việt Nam. Nhưng hồi ấy tôi đang chìm trong đống bản thảo phải cho xuất bản ngay. Có một nhà văn Phi Châu tiếng tăm ra mắt một lượt cả bộ tác phẩm: ba cuốn, rất tham vọng. Bên cạnh việc làm dịch giả, tôi còn là một biên tập viên nữa, mà mọi người biết công việc của một biên tập viên là thế nào rồi đấy. Nhân tiện, nếu có ai thắc mắc, bộ ba của nhà văn Phi Châu nọ là một thất bại về mặt doanh số, giới hàn lâm cũng chẳng thiết tha gì một bộ tiểu thuyết bán ế – họ là vậy đấy, nếu bạn không có danh tiếng thì họ chẳng quan tâm, phân tích, đánh giá sâu xa hơn về bạn đâu. Người tác giả nọ đã rất buồn rầu, suy sụp mất một thời gian dài. Dù chuyện này cũng không phải lạ lẫm hay bất ngờ cho lắm.
Chuyện Giai Du tự sát ở tuổi hai mươi lăm thì bất ngờ. Nó đến rất đột ngột và không ai hiểu được, ngay cả đối với những người ở Việt Nam chứ đừng nói đến tôi – một dịch giả ở tận Hoa Kỳ. Tôi nghĩ, thế đấy, Giai Du đã gia nhập vào hội những nhà văn, nhà thơ tự sát: Hemingway, Virginia Woolf, Kawabata, Mishima, Osamu Dazai, Sergei Esenin, Sylvia Plath… một hội cũng khá đông đúc, và còn những nhà văn vô danh, kém tiếng như chính Giai Du mà chúng ta không có cơ hội được biết. Virginia Woolf, thế mà tôi đã không nghĩ ra, Giai Du say mê bà ấy, rõ ràng đó là một dấu hiệu. Nhưng hai mươi lăm tuổi thì có hơi trẻ quá.
Thời điểm đó, tôi đang dịch một truyện ngắn của cậu ta sang tiếng Anh, dự định đăng lên tạp chí văn chương Asymptote, thậm chí bên họ đã để dành sẵn số cho tôi rồi. Tất nhiên dịch thì cứ dịch và đăng thì cứ đăng, truyện ngắn đó đã được dịch và đăng bình thường, chẳng có gì gián đoạn, chỉ tốn nhiều thời gian hơn dự định mà thôi. Văn của Giai Du không khó dịch, nói thế có phải hơi ngạo mạn không, nhưng trong quá trình làm việc thì tôi cảm nhận như vậy. Câu chữ trong đa số sáng tác của Giai Du không lạ, không lắt léo, ít bản sắc vùng miền, cũng hiếm khi chơi chữ. Một nhà văn dễ chịu. Một nhà văn mà khi dịch sang tiếng Anh, người ta đọc vào chẳng thấy đất nước nào cả, chẳng thấy vùng miền nào cả. Không, Giai Du có vẻ không hứng thú với chuyện đó.
Tôi gọi ngay cho bạn mình ở Việt Nam, hỏi anh chuyện gì đã xảy ra. Anh thuật lại vụ việc: tự tử bằng khí gas. Bị ngộp thở trong khi ngủ, dần dần chìm vào mê man do thiếu dưỡng khí lên não. Thì ra là Kawabata, không hẳn là Virginia Woolf. Phải rồi, Giai Du là một người sợ đau, đọc tác phẩm của cậu là biết.
***
New York là thiên đường đối với ai biết sống với nó, nắm bắt được quy luật vận hành của nó. Với những người thất bại trong việc bước đi trên vùng đất này, mọi thứ khó khăn hơn rất nhiều, họ bị dạt vào những căn trọ tồi tàn với giá thuê đắt đỏ. Tấc đất tấc vàng mà. Thậm chí vàng cũng không đủ so sánh, New York là một thứ còn đắt đỏ hơn cả vàng, hơn cả mạng sống con người – nhưng mạng sống con người đắt hay rẻ nhỉ?
Hôm đó tôi vừa kết thúc buổi thảo luận về một bản thảo mới tinh của một nhà thơ trẻ. Cậu ta, như bao nhiêu nhà thơ trẻ khác, cầu kỳ đến ngốc nghếch, lạc lối trong mơ mộng, có quá ít hình dung về thực tế và không hiểu bản thân đang đối diện với điều gì. Thơ là một thứ thừa thãi và luôn thừa thãi. Rồi cậu ấy sẽ sớm thất vọng như những người khác thôi.
Tôi có một con mắt tinh tường. Đây là điểm tôi khiến tôi trở thành một biên tập viên có hơi kiêu ngạo. Chỉ cần một đôi lần tiếp xúc, hoặc không cần tiếp xúc mà chỉ cần đọc hai ba bài thơ đây đó, tôi có thể tiên đoán được tương lai của một nhà thơ: kẻ ấy sẽ thành công vang dội hay sống trong vô danh. Tất nhiên, con số trở thành vô danh luôn luôn áp đảo, từ trước đến nay số kẻ tôi thấy và âm thầm xếp vào cột “có tiềm năng” chỉ đếm được trên đầu ngón tay, thậm chí còn chưa hết một bàn tay. Cậu nhà thơ ấy tên Amit, người gốc Ấn, cha mẹ đều gốc Ấn, họ mới đến Mỹ định cư được hai thế hệ. Gốc gác này không giúp gì nhiều cho việc quảng bá thơ của Amit cả. Mỹ là một đất nước đa chủng tộc, chẳng có gì đủ khả năng khiến đại chúng bất ngờ nữa. Thơ của cậu ấy thú vị, nhưng cũng chỉ ở tầm như bao nhiêu bài thơ thú vị khác thôi. Trong thời đại mà mọi thứ đều cố trở nên thú vị như ngày nay, chỉ mỗi “thú vị” là chưa đủ.
Hồi đợt ấy, nhà xuất bản chỗ tôi làm cho in rất ít thơ, dù thơ thì chẳng cần nhiều làm gì, thậm chí không cần in cũng được. Song, giám đốc bảo chúng tôi nên có một tủ sách cho thơ, để đa dạng và thể hiện được tinh thần “trao cơ hội cho tất cả” của doanh nghiệp. Thế là chúng tôi bắt đầu nhận bản thảo thơ.
Tập thơ của Amit, với tựa đề Dưới chân Shiva, là một trong những bản thảo được chọn in trong kế hoạch lần đó. Đọc tựa là ta có thể biết vì sao nó được chọn: văn hoá, giai cấp, tôn giáo, biểu tượng, căn tính… những chủ đề đang được quan tâm vào thời điểm ấy. Nhưng tôi thừa biết trong lòng rằng Amit sẽ không thành công, ít nhất là với tập thơ này. Tác phẩm của cậu ta chỉ đơn giản là một kế hoạch làm cho có (cả dự án ấy là như thế). Một vài trang báo sẽ đưa tin, mà không phải đưa tin riêng về Amit hay tập thơ, mà sẽ đưa tin chung về cả lô cùng với bốn tập thơ khác ra chung đợt. Nằm giữa một loạt tác phẩm, việc bị chìm nghỉm đi hay nổi bật lên đều dựa vào chính chất lượng nội tại của sản phẩm. Và nó đã chìm nghỉm. Trong số năm cuốn thơ lần đó chỉ có mỗi tập trường ca Tiếng súng vang lên trong thánh đường của một ông nhà thơ gốc Pháp là nhận được sự chú ý hơn hẳn, nhưng cũng chỉ dừng ở những bàn luận ngắn gọn rồi sau đó cũng bị người ta quên lãng. Trong lô tác phẩm ấy, bên cạnh Amit, tôi còn phụ trách trao đổi công việc và biên tập cho một nhà thơ nữ, là tập thơ có cái tên rất dài: Cầu nguyện cho bóng tối không nuốt mất những cánh chim ăn đêm. Cá nhân tôi dành sự ưu ái cho cuốn này nhiều hơn cả Amit, có lẽ vì sự đồng điệu giữa phụ nữ với nhau. Từ những từ khoá “Shiva”, “thánh đường”, “cầu nguyện”, có thể đoán được tinh thần chung của những tác phẩm đợt đó là gì: tôn giáo, niềm tin, sáng danh và cứu rỗi. Không mới. Rất an toàn.
Sau khi xong buổi trao đổi với Amit, tôi rời khỏi nhà hàng và tiến vào dòng người đi bộ trên đường phố New York, đầy những du khách lỉnh kỉnh đồ mua sắm. Trong đầu tôi lúc ấy chỉ nghĩ đến một câu thơ tôi thấy chưa đủ hay những không biết phải sửa thế nào của Amit. Đang lửng thửng trong công viên thì tôi nghe ai đó gọi tên mình, “Juliet”. Tôi giật mình, nhưng bởi vì cái tên quá đại trà, tôi đã có nhiều lần bị hớ vì trùng tên với những cô gái khác, thế nên tôi không vội quay lại. Cho đến khi một người bước đến chỗ tôi, tôi mới nhận ra anh ta: Hoàng Lâm. Tôi cực kỳ phấn khích và bất ngờ, không hiểu vì sao anh lại xuất hiện ở đây. Chúng tôi ôm lấy nhau.
“Anh sang đây lúc nào thế?” Tôi hỏi và nhìn một lượt đối phương. Anh có tăng cân một chút, dấu hiệu tốt, có vẻ cũng bắt đầu tập thể hình.
“Chỉ vừa xuống máy bay hôm qua thôi.” Hoàng Lâm nhún vai, “Tôi đã nghĩ có khi nào sẽ gặp cô ở đâu đây không, dù chỗ này khá xa nhà xuất bản cô làm. Không ngờ lại gặp thật!”
“Anh sang đây làm việc hay du lịch thế?”
Chúng tôi sóng bước đến một chiếc ghế dưới tán sồi, nhìn ra một hồ nước nhỏ. Buổi trưa rất dịu, hoặc có lẽ khi nhớ lại thì mọi ký ức đều sẽ trở nên êm dịu như thế.
“Tối nay tôi có một bữa ăn với đối tác. Bên tôi đang làm một bộ sách tranh cho thiếu nhi, kết hợp với một quỹ đầu tư bên đây, yêu cầu là phía họ sẽ nắm trách nhiệm định hướng nội dung.”
Hồi trước anh Lâm làm chủ bút cho một trang báo mạng, bây giờ anh đã trở thành một trong những biên tập viên chủ chốt trong một đơn vị xuất bản nổi tiếng ở Việt Nam. Có vẻ quyết định rời tờ báo cũ là đúng đắn, Hoàng Lâm hợp với môi trường sách báo giấy hơn, dù trang báo mạng kia cũng không phải tệ. Hai năm trước, tôi có quay lại thăm Việt Nam theo chính sách giao lưu văn chương của Hiệp hội các Nhà xuất bản/phát hành tư nhân, Lâm nhận được tin và chúng tôi hẹn gặp nhau, anh đưa tôi đi thăm thú thành phố Hồ Chí Minh. Tôi vẫn nhớ một tuần ở bên ấy rất vui, dù không thể vui bằng lần đầu tiên tôi đặt chân đến Việt Nam được: mỗi lần đều là một trải nghiệm khác hẳn và không thể thay thế. Tôi bảo với Hoàng Lâm rằng thật tiếc khi tôi không còn cơ hội để gặp Giai Du nữa. Anh gật đầu, nhưng vẫn an ủi tôi rằng khi còn sống Giai Du có biết tôi và như thế là đủ rồi, cậu ta không phải kiểu người hứng thú với việc gặp bạn bè văn chương, kể cả người có công dịch tác phẩm của cậu ấy sang tiếng Anh sớm nhất đi chăng nữa. Nhưng Giai Du biết và cậu trân trọng nỗ lực của tôi, thế là đủ. Đợt ấy rất vui.
“Dạo này bên Việt Nam thế nào?” Tôi dời mắt từ hồ nước trước mặt về phía anh, hỏi.
“Vẫn vậy thôi, văn chương thì luôn luôn ảm đạm thế!” Hoàng Lâm bật cười. “Chẳng có mấy ai cố gắng nữa.”
“Ở đâu cũng vậy thôi, tình hình chung rồi.”
Tôi kể cho anh nghe tình hình xuất bản và đời sống văn chương ở Mỹ: cũng có nhiều thứ đáng nản lòng, cũng có những cú trượt dài và những khoảng lặng nhàm chán. Không có điều gì đủ để gây ra gợn sóng, mà có lẽ từ bao nhiêu lâu nay sách vở đã thành ra như thế. Những tác phẩm ra mắt không kèn trống, không ai quan tâm, không ai buồn cầm lên đọc, thị trường xuất bản thì ảm đạm, tàng tàng mà sống, tự khen ngợi và khích lệ lẫn nhau. Thế nên không có gì phải buồn khi ở Việt Nam tình hình cũng tương tự.
Sau đó, chúng tôi nói về những vấn đề khác: cuộc sống dạo gần đây, vài người quen cũ, người bạn trai tôi đang quen và cuộc ly dị không suôn sẻ của Hoàng Lâm hồi năm ngoái. Tất tật những chuyện đó. Tôi bảo với anh là nếu anh muốn tham quan New York, tôi sẽ xung phong làm hướng dẫn viên. Anh đã từng đến Mỹ hai lần nhưng một lần là ở Washington và một lần ở California, thật khó tin khi có người đến Mỹ hai lần mà chưa từng đến New York, thường thì người ta vẫn sẽ ghé New York dù không có lý do, người ta luôn bị thúc bách phải đến đây. Nhưng có lẽ đó chỉ là một kết luận ngớ ngẩn với sự quan sát ít ỏi của tôi mà thôi.
Tôi và Hoàng Lâm quen biết nhau thông qua Giai Du, dù cả hai chẳng bao giờ có cơ hội gặp trực tiếp cậu nhà văn đó. Hồi Đại học tôi có quen một anh chàng du học sinh Việt Nam, cũng thuộc khoa Nghiên cứu văn chương, từ đó tôi bắt đầu tiếp xúc với tiếng Việt và yêu thích nó gần như ngay lập tức, dù trước đó tôi chưa từng suy nghĩ đến việc học một ngoại ngữ nào – tôi đã có tiếng Anh rồi, một đặc quyền quá lớn để phải cố gắng. Tiếng Việt đối với tôi không phải là sự lựa chọn thuộc về lý trí mà là cảm xúc, đôi khi tôi cũng bối rối khi có ai đó hỏi tôi học tiếng Việt làm gì, tôi đơn giản là có lòng say mê thôi. Tiếng Việt khi phát âm nghe cứ như chim hót vậy, và khi viết ra trên giấy, trông chúng gọn gàng đến mức khiến tôi cứ nhìn ngắm mãi. Nhờ việc học tiếng Việt mà rốt cuộc tôi đã trở thành một “đại sứ văn hoá” từ lúc nào không hay, tôi bắt đầu đọc những tác phẩm văn học Việt Nam, kết bạn với một số người Việt và thậm chí còn đến Việt Nam du lịch. Cuối cùng, trong một niềm thúc bách kỳ quặc, tôi quyết định sẽ dịch những tác phẩm văn chương đương đại Việt Nam sang tiếng Anh.
Giai Du là một trong những lựa chọn khi đó. Thực ra không phải lựa chọn đầu tiên, tôi chọn cậu ta một cách rất ngẫu nhiên và phải thừa nhận là không xuất phát nhiều từ lòng yêu thích hay mến mộ. Lựa chọn này chỉ đơn thuần mang tính chiến lược: tôi phải chọn ai đó và Giai Du ở ngay trước mắt, nằm trong danh sách tác giả mà tôi tìm thấy trên mạng.
Hoàng Lâm có hàng loạt bài giới thiệu và hai bài phỏng vấn Giai Du, dù chỉ là phỏng vấn bằng văn bản chứ không phải gặp trực tiếp. Gặp trực tiếp Giai Du gần như là một việc bất khả với anh ấy, đặc biệt là sau khi anh đã viết nhiều bài về cậu ta như thế. Lý do là vì Giai Du từng bảo rất sợ những người đã đọc tác phẩm của mình, ai đọc càng nhiều thì cậu ta càng sợ người đó, tất nhiên cần phải hiểu “sợ” ở đây là một phản ứng tâm lý kỳ quặc chứ không phải ghét bỏ.
“Tôi vẫn chưa dịch xong tác phẩm kia.” Tôi nói sau một lúc chần chừ.
Hoàng Lâm nhìn tôi bất ngờ, “Tôi cứ tưởng nó phải sắp xuất bản rồi chứ? Dù đúng là nó cũng hơi dài thật, nhưng có vẻ không khó dịch mấy, đúng không? Bốn năm rồi đấy, cô đừng cầu toàn quá!”
Mất bốn năm để dịch một tác phẩm thật ra cũng không phải là quá lâu, mà tác phẩm ấy của Giai Du cũng khá dài. Nhưng với trường hợp của tôi thì khác, tôi nổi tiếng là một người làm việc rất năng suất. Mấy năm nay tôi vẫn ra mắt những sản phẩm dịch đều đặn, số lượng nhiều đến mức người ta xem tôi như một “đại sứ” đóng góp lớn trong việc đưa văn học Việt Nam ra thế giới. Tuy nhiên, đến tác phẩm kia thì lại xuất hiện nhiều khó khăn.
Tôi cũng không giải thích được vì sao mình lại trễ nải như thế nữa. Không phải vì công việc dồn dập, nó vẫn luôn dồn dập như thế từ trước đến nay rồi. Cũng không phải độ thách thức việc chuyển ngữ của bản gốc, Giai Du luôn luôn là một đối tượng dễ dàng với tôi, lúc bắt đầu tôi còn rất tự tin bảo rằng chỉ cần hơn một năm là mình có thể xong quyển này và không làm ảnh hưởng gì đến những việc khác. Dù vậy, nhìn lại thì đã qua bốn năm mà tôi còn chưa đi được một nửa, mọi thứ thật kỳ quặc.
“Tôi cũng chẳng hiểu nữa, cứ có một điều gì đó luôn xuất hiện đúng lúc để kéo tôi rời khỏi tác phẩm đó. Như thể chính Giai Du cũng không muốn chuyển ngữ nó và âm thầm ngăn cản tôi vậy!” Tôi là người vô thần, đây chỉ là phép ví von thế thôi.
“Những chuyện ngắn khác của cậu ta thì sao?”
“Không, tôi cũng không dịch thêm, tôi chỉ muốn tập trung vào cuốn sách này. Vẫn có những dịch giả khác dịch đôi ba truyện ngắn của Giai Du, còn tôi thì không. Với lại, tôi thấy khá tội lỗi. Tôi đã giành lấy tác phẩm này và nhắc đi nhắc lại về nó. Rốt cuộc ai cũng biết tôi đang dịch nó, vì thế không ai chạm đến nữa để tránh bị trùng. Thế là tôi cứ ôm khư khư đến giờ. Nếu trao cho người khác thì có khi giờ này nó đã được chuyển ngữ xong và ra mắt từ lâu rồi.”
Hoàng Lâm tỏ ra cảm thông và an ủi tôi rằng cứ kiên nhẫn, không cần phải nghĩ nhiều như thế. Hoạt động nghệ thuật đâu phải lúc nào cũng dễ dàng. Tôi gật đầu, nhìn về phía mặt hồ phía trước, bầu trời không một gợn mây. Dường như bất chợt nhớ ra, anh xoay qua nhìn tôi và nói:
“Phiên bản đầy đủ của tác phẩm đó là hơn bốn trăm nghìn chữ.”
“Bốn trăm nghìn chữ? Chà, Giai Du dừng lại ở con số hơn ba trăm nghìn, thế là đã rất nhiều rồi.” Tôi ngạc nhiên.
Tác phẩm mà chúng tôi đang nhắc đến và tôi vẫn chưa dịch xong ấy là một bán thành phẩm. Chuyện ấy có hơi lạ, vì khi một nhà văn quyết định tự sát, họ thường cố gắng hoàn thành một tác phẩm dang dở cho xong, có khi chính việc cố hoàn thành này lại giúp họ sống tiếp và vượt qua. Còn Giai Du, cậu ta quyết định bỏ dở tác phẩm mà ai cũng biết là quan trọng ấy. Giai đoạn đó, dường như mọi người đều biết việc Giai Du đang viết một “tác phẩm lớn”, nhưng cậu ta lại quyết định dừng ở con số hơn ba trăm nghìn chữ – dù vậy, nó đã là rất nhiều rồi.
“Cậu ta từng chia sẻ về ý tưởng của cuốn sách đó cho vài người quen, tôi được biết dự định sẽ là bốn trăm nghìn chữ.”
Một tác phẩm mãi mãi bị bỏ dở.
“Thêm một điểm nữa.” Anh nói tiếp, “Đó là một kế hoạch song sinh: vẫn còn một tác phẩm khác cùng dung lượng, cả hai kết hợp thành một bộ.”
Tôi càng bị kích thích hơn bởi những thông tin hậu trường này. Đúng là nếu không phải người quen với tác giả thì không thể nào biết được chúng. Tôi thắc mắc sao Giai Du có đủ ý tưởng cho một cặp song sinh đồ sộ như thế, và có lẽ nếu chúng hoàn thành thì tôi sẽ không dịch nổi mất. Tôi tò mò muốn đọc những thứ đã không được viết ra, không biết Giai Du đã mang theo những gì qua thế giới bên ấy.
Chuyện là khi cái chết đột ngột được xử lý xong, người ta tìm thấy trong đống bản thảo của Giai Du một tác phẩm dang dở và quyết định cứ in nó dang dở như thế. Đó cũng là tác phẩm dài nhất của cậu. Những tác phẩm khác của Giai Du đều có dung lượng khiêm tốn, chiếm đa số là những tác phẩm trên dưới hai trăm trang.
Tôi kể với Hoàng Lâm về dự án in thơ của chúng tôi, anh có vẻ hứng thú. Tình hình thơ ca bên Việt Nam rất ế ẩm. Làm một nhà thơ ở Việt Nam là gần như cầm chắc khó tìm cơ hội xuất bản, từ đó khả năng thành công cũng hiếm hơn. Thật kỳ lạ khi ở một đất nước có thế mạnh về thơ mà thơ ca lại gặp nhiều khó khăn đến thế.
Sau đó, chúng tôi trò chuyện thêm vài chủ đề khác rồi tạm biệt, tôi vẫn còn một cuộc hẹn khác, có lẽ chỉ cần bước ra khỏi công viên này là sếp sẽ gọi ngay cho tôi cũng nên. Trước khi rời đi, Hoàng Lâm bất giác gọi tên tôi:
“Juliet…”
Tôi xoay lại, nhìn anh, chờ đợi.
Khi đó, chỉ cần anh nói một điều gì quan trọng thôi. Chỉ cần anh bảo anh cần tôi, anh muốn tôi, anh thích ở bên cạnh tôi, tôi hãy đi cùng anh… chỉ cần những lời như thế, tôi nhất định sẽ không từ chối, sẽ nhảy bổ vào anh. Tôi nhớ đến người bạn trai lúc này có lẽ đang ở một quán bar ở bãi biển Florida, chơi trống trong một buổi biểu diễn nhàm chán, trước những khán giả dù không hiểu âm nhạc của anh ta cùng đồng bọn nhưng vẫn cố ngồi thưởng thức, với vẻ như đang thẩm thấu, cùng ánh nhìn đầy cảm thông. Tôi đã từng nghe album nhạc của họ. Một thứ nhạc thể nghiệm không thể chịu nổi, chưa chín muồi và đơn thuần chỉ là sự nổi loạn, cố mạnh mẽ dù quá mức yếu ớt và tìm kiếm sự chú ý bằng những trò gào rú hú hét. Đó là thất bại của những tay nghệ sĩ thể nghiệm: quá nhiều lời ồn ào để tìm kiếm sự chú ý, xuất phát từ nỗi sợ bị lãng quên hơn là giá trị nội hàm bên trong. Vẫn chưa trưởng thành. Nhưng tôi không dám nói ra điều ấy, tôi chỉ bảo rằng mình không cảm được và anh ta hài lòng. Sẽ có những kẻ bất chấp tìm kiếm những biểu hiện đó để chứng minh bản thân có gu, những kẻ phù phiếm. Mối quan hệ giữa chúng tôi sắp tiêu tùng đến nơi rồi, tôi đã chán ngấy anh ta, về tất cả mọi thứ, về ước mơ viển vông, cá tính nghệ sĩ thiếu ổn định và những trận cãi vã chẳng đi đến đâu. Bây giờ là chuyến lưu diễn biệt tăm biệt tích, mà ai biết anh ta liệu có đang tằng tịu với cô nàng nào bên cái bãi biển ấy không. Nếu Hoàng Lâm bảo tôi hãy đi cùng với anh, tôi nhất định sẽ ngay lập tức chia tay tên bạn trai kia, tôi nhất định sẽ chấm dứt những điều đáng lẽ nên phải chấm dứt từ sớm, tôi đã đợi anh Lâm nói ra rất lâu rồi.
Tôi muốn Hoàng Lâm kéo tôi khỏi nơi này, tôi và anh sẽ đi đến một nơi nào đó, một đất nước khác, không phải Mỹ hay Việt Nam. Chúng tôi sẽ thoát ra khỏi chính mình, không sống cuộc đời này nữa mà sẽ bắt đầu lại từ con số không, bởi vì mọi thứ nay đã gần như đổ vỡ, đứng trước bờ vực suy sụp mà không thể quay đầu. Buộc lòng chúng tôi phải nhảy qua, nắm tay nhau và nhảy qua cái khoảng không trống rỗng ấy, có thể sẽ là cuộc lao mình xuống bóng tối hoặc thành công đáp đất ở phía bên kia. Tôi không biết nữa, nhưng ngay khoảnh khắc ấy, tôi muốn đi trốn cùng anh Lâm. Miễn là anh nói ra điều ấy. Chúng tôi sẽ lao vào tình yêu mà không quan tâm đến những điều khác nữa, mãnh liệt và hiến sinh. Song, dù ngấm ngầm dữ dội, trên bề mặt thì cả hai vẫn đứng đó, với sự kiềm nén dịu dàng.
“Mai chúng ta gặp nhau nhé, chắc anh cần một hướng dẫn viên để tham quan New York thật! Nó rộng lớn quá và anh cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu.” Hoàng Lâm đề nghị.
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Anh đã đề nghị một cuộc hẹn vào ngày mai, thật tốt quá! Tôi gật đầu đồng ý, dù trong lòng không chắc mình có dễ dẫn anh đi thăm thú những đâu. Ngày mai là cuối tuần, tôi có thể để bản thân rảnh rỗi được.
Y như tôi đoán, ngay khi ra khỏi công viên thì tay giám đốc nhà xuất bản gọi điện cho tôi thật. Lão nhắc tôi đã đến giờ của cuộc họp tiếp theo, một dự án xuất bản khác nữa, một hợp đồng khác cần phải soạn thảo, hay một bản thảo nào đó cần phải thẩm định. Tôi không nhớ rõ đó là gì, nhưng có một công việc khác đang đợi tôi ngay khi vừa tạm biệt Hoàng Lâm.
Việc gặp lại anh bất ngờ và có một buổi trò chuyện thoải mái làm tôi lâng lâng cảm xúc, mọi công việc trong ngày hôm đó cũng được xử lý trơn tru hơn bình thường. Sếp nhìn ra được tôi hơi khác khác, hỏi tôi có chuyện gì vui hay sao. Tôi đã gật đầu, thành thật rằng mình đã gặp một người bạn từ Việt Nam bay sang đây. Lão nhìn tôi và dường như đã hiểu ra gì đó, rồi cười cười ngụ ý. Tôi không thèm giải thích thêm. Tôi còn đang bận nghĩ xem ngày mai sẽ đưa Hoàng Lâm đi những đâu.
“Việt Nam à?” Lão sếp nghĩ ngợi, rồi góp ý, “Vậy thì đừng dẫn đi bảo tàng, đặc biệt né chỗ đài tưởng niệm sự kiện 11 tháng 9. Nói chung là tránh những gì gợi về lịch sử, nỗi buồn và cái chết!”
Tôi suy ngẫm về lời này của lão. Ban đầu tôi không hiểu, nhưng chỉ cần phân tích một chút là có thể nhìn ra những điểm có lý trong lời khuyên ấy. Đúng là có khả năng những người như tôi và Hoàng Lâm khi đi du lịch sẽ đến các địa điểm liên quan đến văn hoá và lịch sử, chúng tôi có xu hướng sẽ chọn những nơi như lão giám đốc nói. Nhưng làm sao Lâm có thể mặc niệm trước mất mát của nước Mỹ, xét đến những gì nước Mỹ đã gây ra với đất nước của anh. Tất nhiên anh không phải là kiểu người như thế, anh có góc nhìn khác họ, tuy vậy cũng cần tránh mọi tình huống khó xử. Tưởng tượng nếu đứng trước đài tưởng niệm nạn nhân của Mỹ và bất chợt anh nhớ lại Mỹ còn làm những chuyện kinh khủng hơn với người Việt Nam trong quá khứ, liệu chúng tôi có đột ngột bị mất hứng ngang hay không? Rõ ràng có khả năng ấy, và chuyện này làm tôi trầm xuống. Nhưng mà liên quan gì chứ: lịch sử đã qua và cuộc sống hiện tại, quyết định của người cầm quyền và dân chúng vô tội, người khác và chúng tôi? Nhưng không thể nghĩ đơn giản như thế được.
Vậy là tôi vạch ra các địa điểm, cảm giác cần cẩn trọng dâng trào. Thế là tôi tìm ra được những lựa chọn an toàn hơn: những tụ điểm nghệ thuật, triển lãm và các buổi biểu diễn. Nghệ thuật luôn nằm ở giữa, luôn ở lằn ranh, không thuộc về bất kỳ điều gì và nhờ thế chúng an toàn, tất cả mọi nền văn hoá và mọi con người đều tìm thấy điểm chung trong nghệ thuật. Vùng đất ấy đủ yên bình cho những con người muốn ở cạnh nhau, cứ như một lồng kính vô trùng vậy.
Tối hôm ấy, bạn trai tôi gọi điện hỏi thăm tình hình, anh bảo xong đợt ở Florida sẽ đến ngay Ohio, họ có vẻ bắt đầu nhận được vài sự chú ý. Có người nhận ra nhóm họ trên đường. Harry bảo thì ra đây chính là cuộc sống trong mơ mà mọi người thường hay nhắc đến. Tôi không biết có nên nói với anh về việc giữa chúng tôi ngay lúc ấy hay không, có lẽ không phù hợp lắm, khi anh đang ngập tràn trong hạnh phúc như thế. Nhưng tôi chọn sẽ tỏ một chút thái độ, Harry nhận ra và dò hỏi:
“Có chuyện gì thế, Juliet?”
“Không… em chỉ… dạo này em nghĩ nhiều về chúng ta, chuyện của chúng ta!” Tôi cố gắng diễn đạt ý mình.
Một khoảng lặng trôi qua, tôi hiểu điều này khuấy động Harry như thế nào, rồi anh gật gù, thở dài.
“Phải… anh cũng đã nghĩ rất nhiều…”
Nhưng cả hai quyết định gác lại điều đó. Chúng tôi sẽ thẳng thắn xử lý khi gặp nhau trực tiếp, không phải qua điện thoại. Thế là, một cách âm thầm, cả hai cũng đã xác định mọi thứ vậy là sắp kết thúc. Chúng tôi đã tách rời khỏi nhau đủ lâu, khoảng trống giờ đây quá lớn và gần như chẳng ai thật sự nghiêm túc trong chuyện này nữa cả. Có lẽ đã đến lúc cả hai cần phải trưởng thành, phải lớn lên. Có thể là ngay từ giây phút này.
***
Fiona từng bảo với tôi hãy cẩn thận, cô ấy nhìn thấy tình cảm của tôi dành cho Harry: một thứ tình cảm không phải tình yêu lãng mạn, không phải là việc sẽ diễn ra giữa một người đàn ông và một người phụ nữ, mà giống như một người mẹ dành cho một cậu con trai vẫn chưa thể trưởng thành. Một khao khát của người mẹ. Fiona nhắc nhở tôi rằng phụ nữ vẫn thường rơi vào tình huống đó mà chính họ cũng không biết: nhầm lẫn giữa tình mẫu tử và tình yêu.
“Cậu không yêu anh chàng ấy, Juliet! Cậu chỉ thấy hắn ta tội nghiệp thôi và chuyện này sẽ chẳng thể đi đến đâu! Juliet à, thật đáng buồn khi nói điều này, nhưng tất cả mọi người đều phải lớn lên.”
Hồi trước, tôi không suy nghĩ quá nhiều về những lời ấy – Fiona cũng không phải là một cô bạn lắm mồm sẽ nói đi nói lại nhận định của mình về một chuyện gì đó, cô ấy chỉ nói một lần, nghe hay không thì tuỳ đối phương. Nhưng đến giai đoạn mà tôi đang kể, mọi thứ bắt đầu thấm thía và tôi nhận ra vấn đề của tôi với Harry – tay trống mang nhiều đam mê nhưng chưa có đủ may mắn. Nhưng tôi có thể làm gì đây? Ai mà chẳng có ước mơ. Nếu hy sinh ước mơ để sống một cuộc đời “ổn định” thì ta sẽ vừa khuôn với xã hội, nhưng ta phải đánh đổi điều gì? Ta nên chọn gì và làm cách nào ta tôn trọng sự lựa chọn của người khác khi cái lựa chọn ấy cũng ảnh hưởng đến cả cuộc đời của chúng ta.
Tôi kể với Fiona về Hoàng Lâm. Cô khuyên tôi:
“Nếu cậu thật sự thích anh ta, cậu nên sớm chia tay Harry, nhùng nhằng chẳng giúp ích gì cả!”
“Mình biết, ngày mai trong buổi đi chơi mình sẽ dò đoán anh Lâm. Nếu anh ấy có chút tình cảm với mình, mình sẽ suy nghĩ nghiêm túc về việc này.” Tôi đáp.
“Harry sẽ ổn thôi.” Fiona nói, “Anh chàng sẽ sớm tìm thấy người phù hợp với bản thân. Cả hai có thể trao trả tự do cho nhau và mở ra những sự lựa chọn khác cũng tốt.”
Lắng nghe Fiona, tôi nghĩ có khi người khao khát làm mẹ nhất là cô ấy chứ không phải tôi. Cô ấy giống một người mẹ dẫu không biết những đứa con của mình đang phải trải qua chuyện gì, nhưng luôn xuất hiện với những cuộc trò chuyện và lời khuyên quan trọng vào đúng lúc.
“Nhân tiện, mình đã đọc phần dịch mới mà cậu gửi.” Fiona đổi chủ đề. Tôi nghe thấy tiếng lật giấy, có lẽ xấp giấy đang ở trước mặt cô.
Mỗi khi dịch được một chương hoặc khoảng tầm vài chục trang tác phẩm của Giai Du, tôi lại gửi cho Fiona đọc thử. Cô không có chuyên môn, không biết gì về nghề biên tập viên lẫn dịch thuật, thậm chí còn không có vốn luyến văn chương. Nhưng như thế mới tốt, tôi cần những người đọc chỉ đơn thuần là người đọc. Fiona luôn đọc qua và cho nhận xét, hoàn toàn nằm ngoài mọi định hướng nghệ thuật, chiến lược thẩm mỹ. Cô chỉ đơn thuần là một độc giả đọc một tác phẩm và nêu cảm nhận. Càng ngày càng hiếm những người đọc như cô. Ngày nay người ta khoác lên việc đọc đủ thứ lụa là và đường lối phê bình, quên mất việc đọc vốn là đọc.
“Cậu thấy thế nào?” Tôi hỏi.
“Rất tốt, thật lòng thì mình bắt đầu hiểu về tác giả này, hiểu được cách người đó sắp xếp câu chữ và câu chuyện.” Tiếng gõ gõ đầu bút bi, “Nhưng mình không hiểu, dù đến giờ cậu đã đi được hơn một nửa tác phẩm và mình cũng đã đọc chừng ấy, mình vẫn không hiểu rốt cuộc cái tác phẩm này sẽ đi đến đâu. Tác giả định đưa nó đi đến đâu?”
Tôi không nói với Fiona rằng tác phẩm bị bỏ dở nên chẳng ai thật sự biết Giai Du định đưa nó đi đến đâu, chưa kể những gì đã được viết ra cũng không cung cấp gợi ý nào có thể dùng suy luận được. Tôi giấu Fiona bởi vì nếu cô ấy mà biết đây là một tác phẩm không có kết thúc thì chắc chắn cô sẽ từ chối đọc nó, người đọc nào cũng ghét việc đọc phải tác phẩm bị bỏ lửng mà.
“Cậu thắc mắc đúng rồi đấy, đó là thắc mắc chung khi người ta đọc tác phẩm của tác giả này. Không ai thực sự biết câu chuyện sẽ đi đến đâu vì có cảm giác như câu chuyện có thể đi bất cứ đâu.” Tôi đáp.
“Vả lại…” Đột nhiên, Fiona ngập ngừng, “Nói riêng với nhau thôi, chẳng hiểu sao khi đọc mình có cảm giác… tác giả này sẽ tự sát.”
Tôi giật bắn, “Sao cơ?”
“À không, cậu đừng để ý… Một loại cảm giác kỳ quặc và khó hiểu thôi. Cứ lâu lâu là mình lại cảm thấy những thứ kỳ cục như vậy. Mình muốn nói là mình cứ có cảm giác tác phẩm này… quá tù đọng.”
“Vậy à, cậu nói rõ hơn đi!” Tôi khuyến khích cô.
“Như một cái ao tù không thể chảy đi đâu ấy. Nói sao nhỉ… Mình luôn quan niệm tự sự là một dòng chảy: nhìn trên mặt giấy nhé, nó là những dòng chữ nối nhau đến kết; còn nhìn trên câu chuyện, nó là dòng chảy của mạch truyện. Nhưng mình cảm giác câu chuyện tác giả này viết… không chảy.”
Tôi nín thở, chờ đợi.
“Tác phẩm này không chảy!” Fiona khẳng định với thái độ tự tin hơn, “Hẳn đó cũng là lý do chúng ta không đoán nổi những thứ được viết sẽ đi đến đâu, bởi vì chúng không hề di chuyển và không hề thúc đẩy tác phẩm di chuyển. Mà thật lạ, nhân vật trong tác phẩm thì đi khắp nơi, di chuyển liên tục dọc chiều dài đất nước, đồng thời còn bay phóng qua hàng nghìn phiên bản sống, phủ khắp thế giới và khắp lịch sử, gặp đủ mọi con người, kể hàng loạt câu chuyện… nhưng sao mình vẫn có cảm giác quanh quẩn? Chúng tù đọng và tắc nghẽn, chúng bị tắc ở đâu đó và không được khai thông. Mọi thứ đều đứng im, câu chuyện đứng im và thậm chí… cả từ ngữ cũng đứng im. Mình không phải đang chê bản dịch đâu, mình nghĩ trong ngôn ngữ gốc nó đã đem đến cảm giác thế rồi!”
“Cậu vừa gợi ý một điểm rất quan trọng cho mình đấy!” Tôi nhấn mạnh. Tắc nghẽn, không thể khai thông?
Fiona bật cười, “Dù sao mình vẫn cảm thấy thoải mái với bản dịch, đem được cả tinh thần của bản gốc sang tiếng Anh thế thì hay quá. Cậu đang làm tốt đấy, như mọi lần! Mình sẽ đợi phân đoạn tiếp theo.”
Tôi cảm ơn cô và chúng tôi gác máy. Sau đó tôi dành nhiều thời gian để suy nghĩ mông lung về cuộc gặp mặt ngày mai với Hoàng Lâm. Tôi cũng định tập trung để tiếp tục dịch thêm chút nữa, nhưng khi ấy tôi chẳng còn tâm trí nào cho chuyện khác.
***
Tôi không thể đoán ra được sáng hôm sau Hoàng Lâm lại có trạng thái tinh thần không tốt lắm. Khi thấy anh ở chỗ hẹn, tôi đã ngay lập tức nhận ra anh đang có nhiều thứ phải lo lắng. Anh đứng bên kia đường và vẫy tay với tôi, thần sắc hơi rầu rĩ và tướng đi cũng không thật tự tin.
Tôi hỏi, “Có chuyện gì vậy, anh Lâm? Trông sắc mặt anh hôm nay tệ quá!”
Anh bật cười, nhún vai, “Buổi gặp hôm qua với đối tác diễn ra không suôn sẻ lắm.”
Tôi cũng đoán là vì chuyện ấy.
“Bên họ đề xuất hướng đi của bộ sách không phù hợp với bên tụi anh.” Hoàng Lâm giải thích thêm, “Thế mà anh cứ tưởng mọi thứ đã được thống nhất xong cả rồi. Giờ cứ như phải thảo luận lại tất cả từ đầu vậy, thật phiền phức nhỉ?”
Tôi gật đầu. Tôi hiểu hết những chuyện kiểu này. Luôn luôn có những đối tác kỳ quặc không chung chí hướng với ta, luôn có sự hiểu lầm về tư tưởng, có người mơ ước về một con đường và xem nó mới là giá trị, nhưng quên mất rằng có những người mơ ước về con đường hoàn toàn khác. Đấy chỉ đơn thuần là những suy nghĩ đối lập, con người thì luôn đa dạng như thế. Giai Du từng viết: giống nhau mới đáng sợ. Nhưng không thể không thừa nhận rằng khác nhau cũng đem lại vô số rắc rối.
Chúng tôi quyết định ăn trưa ở một nhà hàng Ý. Hoàng Lâm kể cho tôi nghe về cuộc nói chuyện hôm qua. Bên phía đối tác của anh mong muốn một bộ sách thực sự sâu sắc, đủ phức tạp và đủ khả năng tranh cử những giải thưởng hàn lâm, trong khi phía anh ở Việt Nam chỉ muốn tạo ra một bộ sách tranh “bán được”, quan trọng là phải đáp ứng đủ chỉ tiêu về mặt kinh tế, thân thiện và đơn giản, nhu cầu thị trường bên đó chỉ có thế. Vậy là nổ ra một cuộc tranh cãi gần giống như một sự phân tầng địa vị, khi đối phương bảo rằng chúng ta không được phép tạo ra những cuốn sách nông cạn và hời hợt, không thể chỉ nghĩ đến những kế hoạch ngắn hạn chỉ in một lần rồi bán tống bán tháo cho xong, ta phải nghĩ đến những giá trị lâu dài, in đậm dấu ấn vào ngành xuất bản và mỗi sản phẩm tạo ra đều phải mang một tầm vóc to tát. Nhưng họ không hiểu về thị trường Việt Nam, với những tác phẩm đa phần đều in một lần, biến mất như chưa từng tồn tại, làng nhàng cho vui chứ không mấy khi nuôi dưỡng tham vọng lớn. Họ bảo anh chính vì vậy mà mọi thứ chẳng đi tới đâu. Anh cãi lại rằng đầu tư quá nhiều vào một dự án mà chẳng biết có thể thu lợi được hay không là ngốc nghếch. Vân vân, rốt cuộc lại quay trở về với những câu hỏi căn bản: tính chất hàn lâm và đại chúng trong nghệ thuật. Thật nhức đầu! Ai đã tạo nên cái hệ thống này vậy nhỉ?
Tôi bật cười, nhìn vào món mỳ trong đĩa, rồi nhìn sang dàn nhạc đang hoà tấu một khúc nhẹ trong phòng. Tôi đã nghĩ buổi đi chơi hôm nay sẽ khác thế này: không bàn công việc, tạm bỏ những bản thảo, con chữ, những đối tác và tình hình kinh tế qua một bên. Nhưng mọi thứ đã đi vào guồng hết sức tự nhiên, có một lực đẩy vô hình khiến cuộc nói chuyện giữa tôi và Hoàng Lâm cứ đi theo các xu hướng đó. Dẫu gì, giữa cả hai cũng đâu có mấy đề tài nói chuyện chung.
Giữa buổi ăn, tôi phải tạm rời đi để nghe điện thoại. Dù là ngày nghỉ nhưng có vẻ những người khác không quan tâm mà cứ làm phiền tôi thoải mái miễn họ muốn. Cuộc gọi là từ Amit, cậu ấy bảo mình muốn thêm ba bài thơ nữa vào tập thơ sắp in, chúng có thể được xếp vào tập đó, khá phù hợp với tổng thể. Rồi cậu bắt đầu đọc cho tôi nghe nhưng tôi bảo cậu dừng lại bởi vì bây giờ không phải lúc, tôi sẽ xem xét những bài thơ ấy sau. Amit nói thêm mình đã nghĩ ra một cách sắp xếp khác, thực ra không hẳn là cậu nghĩ ra mà là kết quả từ một cuộc trò chuyện giữa cậu và nhóm thơ cậu tham gia. Nhóm thơ ấy vẫn còn hoạt động đến hôm nay, dù chỉ là một cái hội đôi ba thành viên tập hợp lại và tự tổ chức, cho có bạn có bầy, nếu muốn thì bây giờ chúng ta có thể tra được trang hoạt động trên mạng và cả tạp chí của họ. Tồn tại tạm bợ nhưng lâu dài, thật bất ngờ. Nhưng dù sao thì họ cũng giúp Amit có ý tưởng, tôi bảo mình cũng sẽ xem xét việc ấy sau. Tôi tắt máy và quay lại chỗ ngồi. Hoàng Lâm đang chống cằm và nhìn dàn nhạc.
Anh kể với tôi, “Sáng nay, ở dưới sảnh khách sạn anh thuê có một cặp đôi nọ cầu hôn nhau!”
Tôi bắt ngay câu chuyện. Đây là một chủ đề nói chuyện rất được, đúng kiểu chuyện phiếm không có mục đích, thứ cần phải tồn tại. Tôi vừa nghe anh kể, vừa ăn.
“Đột nhiên chàng trai quỳ xuống, rút nhẫn ra. Mọi người trong sảnh ồ lên, có một cây piano được đặt ở đấy và người nào đó nảy ra ý tưởng sẽ đệm một giai điệu lãng mạn. Nhưng buồn cười là cô nàng kia, bất kể mọi người xung quanh ồn ào cách mấy, lại đang chụp ảnh một pho tượng và không hề nhận ra bạn trai mình đang quỳ phía sau. Anh chàng thì đợi cho cô nàng quay lại, đó là kế hoạch: cô gái sẽ quay lại và bất ngờ trước chiếc nhẫn kim cương. Mọi người đều ngóng đến khoảnh khắc cô nàng phát hiện. Phải đến mãi một lúc, người bạn gái mới nhận ra điều kỳ lạ và xoay lại. Tất nhiên, cô ta bất ngờ, xúc động ôm lấy mặt. Họ ôm hôn nhau trong tiếng vỗ tay và tiếng piano ngọt ngào.”
Tôi có thể tưởng tượng ra khung cảnh lúc ấy, đúng là đáng ngưỡng mộ. Dù tôi không hẳn là một người sẽ cần bạn trai mình làm những điều hoành tráng như thế, nhưng tôi thích khi người khác làm vậy với nhau. Thế giới này đôi khi chỉ cần có vậy.
“Nhưng anh lại thấy cầu hôn nhau ở sảnh khách sạn thì kỳ cục thật!” Hoàng Lâm phụt cười, “Nếu đã đầu tư thì nên là ở bãi biển, trên du thuyền, trong nhà hàng sang trọng hay chỗ nào đó thật sự phù hợp và nghiêm túc. Còn một cái sảnh khách sạn thì không phù hợp lắm! Nhưng thôi, người ta vui là được.”
Tôi nghiêng đầu, “Em nghĩ sảnh khách sạn cũng ổn.”
Tôi nghĩ một cái sảnh khách sạn không có vấn đề gì cả. Chỗ anh Lâm thuê có vẻ cũng đủ tốt và sang trọng. Dù anh bảo những nơi như du thuyền hay bãi biển thì quá hoàn hảo, nhưng đâu phải ai cũng đều có điều kiện đến mức đó. Chưa kể, nghe anh thuật lại, tôi có cảm giác nó rất lãng mạn, mọi thứ rất tuyệt.
“Hồi trước, anh không cầu hôn vợ cũ của mình: nghĩa là không quỳ xuống, mở hộp nhẫn. Tụi anh chỉ cảm thấy đã đến lúc phù hợp và thế là thông báo với gia đình, đăng ký kết hôn và đến lúc đó mới mua nhẫn đính hôn. Ở nước anh hình như cũng không mấy ai làm một buổi cầu hôn rình rang.”
Nhắc đến vợ cũ, Hoàng Lâm có vẻ hơi trầm xuống. Hai người họ ly hôn chẳng vui vẻ cho lắm, không phải vì bất cứ sự lựa dối nào, chỉ là khi sống cùng nhau bao nhiêu năm, có những đứa con, họ dần ghét cay ghét đắng đối phương. Thật khó để tưởng tượng điều ấy chỉ bằng cách nói suông, nhưng tôi có thể hiểu, nó sẽ giống tôi và Harry ở thời điểm hiện tại: chẳng có gì xảy ra cả, chỉ là càng lúc cả hai càng thất vọng về nhau và mọi tật xấu, mọi khiếm khuyết của đối phương bị phóng đại càng lúc càng lớn qua thời gian, đến mức ta trở nên căm ghét đối phương không chịu nổi. Trường hợp của Hoàng Lâm là như thế.
Tôi an ủi anh rằng mọi thứ không tệ đến vậy, mọi thứ rồi sẽ ổn thôi và dần dần chuyện này sẽ qua, cả hai người họ có thể bắt đầu lại và vì thế không cần phải đau đớn hay sợ hãi một cuộc hôn nhân thất bại. Chúng ta rồi sẽ phải thất bại trong rất nhiều chuyện, hôn nhân và tình yêu có lẽ cũng là một trong số đó, chỉ là đừng để bản thân sống trong thất bại. Ta chỉ thất bại trong một việc và trong một trường hợp cụ thể chứ không phải là một kẻ thất bại có một cuộc đời thất bại. Những thứ ấy rất khác nhau.
Sau khi ăn trưa xong, tôi đưa anh đến một triển lãm nghệ thuật. Tôi không rõ triển lãm ấy là về gì nhưng nghe bảo nó rất nổi tiếng và đang được bàn luận xôn xao trong cộng đồng hoạt động nghệ thuật New York. Bạn bè nghệ sĩ và đặc biệt nhân viên ở chỗ làm của tôi mấy hôm nay thường nhắc đi nhắc lại về nó. Triển lãm có một cái tên nghe qua cũng khá ấn tượng nhưng tôi không hiểu mấy: Kho lưu trữ biến mất. Anh hỏi tôi về nó khi cả hai ngồi trên taxi, nhưng tôi bảo mình cũng không thật sự rõ nó sẽ như thế nào, chỉ được giới thiệu là rất thú vị thôi.
Lẽ ra tôi nên nghiên cứu kỹ lưỡng hơn trước khi quyết định đặt vé trên mạng. Ít nhất tôi cũng phải xem loại triển lãm ấy là triển lãm gì và người ta sẽ làm gì trong đó. Rốt cuộc, dù đã cân nhắc kỹ cách mấy thì tôi vẫn để lộ bản tính thiếu cân nhắc của mình trong những vấn đề quan trọng.
Đó là một dạng triển lãm thị giác, đa phương tiện, có kết hợp cả trình diễn. Ban đầu nhìn thấy áp phích quảng cáo, Hoàng Lâm khá hứng thú. Anh từng tham gia những triển lãm kiểu này ở Việt Nam, do những nhóm “nghệ thuật tiền phong” (họ tự gọi như vậy) mở ra. Đối với tôi thì kiểu này cũng không lạ mấy. Chúng tôi đi qua những bức tượng được ghép lại từ những món đồ cũ, những sản phẩm cắt dán theo đường lối khó hiểu mà có lẽ cần một vốn kiến thức sâu sắc về lịch sử, xã hội, văn hoá để có thể hiểu được chúng đang muốn nói điều gì. Chúng tôi được biết nghệ sĩ đã tạo ra những thứ này là một người Iran tị nạn, triển lãm của ông đạt được một số thành công ở quốc tế và từng được trưng bày ở bảo tàng Louvre, như thế đã đủ để bảo chứng cho giá trị của chúng. Tuy nhiên, với chúng tôi thì mọi thứ có vẻ hơi quá sức.
“Anh chẳng hiểu gì cả.” Hoàng Lâm thành thực nói khi chúng tôi đứng trước một bức ảnh chụp kết hợp những chi tiết cắt dán: các yếu tố ngẫu nhiên tạo thành một hình ảnh nào đó nằm giữa một cái âm đạo và một con voi.
Tôi gật đầu đồng ý, “Thú thực em cũng chẳng hiểu, thậm chí còn chẳng thấy nó đẹp.”
Không có tác phẩm nào ở đấy mà tôi thấy đủ đẹp hay ấn tượng cả, có thể do tiêu chuẩn thẩm mỹ khác nhau, nhưng chúng làm tôi cảm thấy khó chịu hơn là chỉ đơn thuần không hiểu. Đặc biệt là trong tình huống ngày hôm đó: một buổi đi chơi với Hoàng Lâm, lẽ ra phải hào hứng và thú vị hơn là một khu triển lãm chán ngắt, màu mè đến hoa cả mắt như vậy. Nó làm chúng tôi chìm trong sự im lặng bối rối, chẳng biết phải nói gì với nhau.
Tôi và Hoàng Lâm đứng trước một mô hình những quả cầu được treo lơ lửng. Miêu tả thì nghe đẹp vậy nhưng thực tế là chúng được phối màu cực kỳ xấu xí, thậm chí chất liệu của chúng cũng không phải thuỷ tinh mà bằng nhựa rẻ tiền, cả không gian là những khối màu xoay chuyển, cảnh nền thì được phát từ một cái máy chiếu gần đó. Tôi không có hứng thú để nghĩ xem tác phẩm này ẩn dụ cho điều gì ở Iran hay điều gì của nhân loại. Hoàng Lâm bắt đầu thấy mệt mỏi. Có một chuỗi bài hát được phát trong không gian triển lãm và nó nghe cứ như là sự kết hợp từ những vụ tai nạn giao thông vậy, tất cả chỉ cốt để chúng tôi càng kiệt quệ tinh thần hơn nữa.
Một cảm giác căng thẳng vì bức bối hơn là vì chiêm nghiệm nghệ thuật đương đại. Việc cố tỏ ra mình đang nghiền ngẫm trước một mớ lộn xộn khiến cả hai đứa thấy lợm giọng, buồn nôn. Chúng tôi không phải là kiểu người giả đò chứng minh bản thân am hiểu và sâu sắc. Nhưng cũng chẳng thể tỏ ra thất vọng hay cười cợt được. Mọi thứ bị kéo căng, chới với và tôi thừa biết cả mình lẫn Hoàng Lâm đều muốn thoát khỏi chỗ đấy nhanh nhanh.
Đoàn người được dẫn vào một căn phòng có bục sân khấu, trông như một giảng đường Đại học. Một lão trung niên đang đứng đợi chúng tôi. Chúng tôi được giới thiệu đó chính là người nghệ sĩ đã tạo nên triển lãm này, mọi người xung quanh đồng loạt vỗ tay trước khi kịp hiểu bản thân vỗ tay cho điều gì. Tôi nhận ra không chỉ mỗi mình và Hoàng Lâm, ai ở đây cũng đang cố giả vờ như bản thân hiểu những thứ kỳ quặc được trưng bày.
Thì ra căn phòng đó dành để trình diễn một tác phẩm nghệ thuật tương tác. Tay nghệ sĩ mời ngẫu nhiên vài vị khách lên sân khấu và ngồi vào hàng ghế được bố trí sẵn. Tôi là một trong số những người được lựa chọn. Thế là tôi bước lên, với hy vọng sắp tới sẽ diễn ra một điều gì thật sự ấn tượng. Tôi ngồi xuống ghế và có vẻ tay nghệ sĩ chú ý ngay đến tôi, ông gọi tôi đến gần và ngồi ở vị trí trước mặt ông. Sau đó, ông đem ra một cái bảng vẽ chi chít những đường ngoằn ngoèo, trông như một tấm bản đồ, với đinh ghim, những dấu bút đỏ và những sợi chỉ màu chồng chéo.
Ông ta hỏi tôi, “Cô gái, cô thấy gì khi nhìn vào cái bảng này?”
“Một đống hổ lốn những cơn gào thét trong điên loạn để tìm sự chú ý, xuất phát từ nỗi sợ bị lãng quên.” Tôi trả lời và bây giờ đến phiên người nghệ sĩ bối rối, chính ông qua cũng phải xoay đầu nhìn lại tác phẩm của mình.
Sau đó, một cách ngường ngùng, ông gãi mái đầu hói, “Lộ liễu thế à!”
Tính hiệu của một câu tự trào, cả khán phòng bật cười, thậm chí Hoàng Lâm cũng phụt cười.
“Thế cô cảm nhận được điều gì từ nó?” Ông hỏi tiếp.
Tôi cảm thấy tiếc tiền, làm ơn trả lại tiền vé cho tôi, để tôi ra khỏi đây. Nhưng tôi không nói vậy.
“Tôi thấy nó quá ồn ào.”
Ông ta hài lòng. Sau đó, ông bắt đầu luyên thuyên, rằng đây thực chất là một tấm bản đồ, về những điều bị che giấu hoặc chẳng ai quan tâm đang diễn ra ở Trung Đông, lịch sử về một thế hệ đã mất và chính nó cũng đang biến mất. Ông kể về những hoạt động bí mật, những mưu chước của các tổ chức có tiếng nói, những chính trị gia bị kiểm soát, theo dõi, thủ tiêu…
Tôi ngồi đó, như một cô học trò ngoan ngoãn. Tôi có cảm giác mình đang teo nhỏ lại, rúm ró và mặt đất đang lún xuống nuốt chửng cái ghế và tôi. Hai má tôi nóng bừng vì xấu hổ, tôi có thể tưởng tượng Hoàng Lâm đang ngồi bên dưới, cũng ngượng nghịu cho hoàn cảnh mà tôi đang phải rơi vào. Tôi muốn hét lên bảo với cái lão trung niên kia, rằng ai quan tâm chứ, ông nghĩ ai sẽ quan tâm đến tất cả những thứ này, về những con người ở đó, về thứ lịch sử mà ông đang muốn thể hiện, ai quan tâm chứ? Nhưng tôi chỉ chết cứng trên ghế, mới gần năm phút trôi qua nhưng cảm giác thứ tiếng Anh khó nghe ngọng nghịu của đối phương như một cái máy phát thanh chẳng ai chịu tắt, cả cơ thể tôi mệt mỏi vì phải gồng cứng trước bao nhiêu ánh mắt đang nhìn, tay chân tôi rậm rật khó chịu.
Sau đó, rốt cuộc tôi cũng được thả cho về, đến lượt người khán giả tiếp theo. Những người sau cũng chỉ toàn thốt ra những câu trả lời ngớ ngẩn, trả lời trong khi chính họ cũng không hiểu bản thân đang nói gì, cốt để tỏ ra bản thân sâu sắc.
Từ đấy cho đến lúc kết thúc buổi triển lãm, tôi và Hoàng Lâm không nói gì với nhau. Thực ra là có nói, nhưng chúng không phải là những đoạn hội thoại đáng nhớ và đáng kể nên tôi cũng chẳng cần thuật lại làm gì. Tại sao nghệ thuật lại thành ra thế này? Tôi tự hỏi, tại sao chúng lại biến thành những màn trình diễn kệch cỡm, ngu ngốc và người ta hùa nhau khen lấy khen để, cố gắng tiếp nhận không phải vì họ thích mà vì một tấm lòng thương hại cho những điều khác bên ngoài? Chúng ta đang đi đến đâu trên con đường này?
Chúng tôi ăn tối trong một quán pizza đơn giản. Tôi xin lỗi Hoàng Lâm về ngày hôm nay, lẽ ra tôi cần phải xem xét kỹ lưỡng hơn cái nơi tôi rủ anh đến tham quan. Anh xua tay, bảo chuyện này không có gì để xin lỗi cả, phải thử thì mới biết mình có hợp hay không chứ, và chúng tôi chẳng có gì phải buồn phiền khi quyết định cho các nghệ sĩ một cơ hội, chẳng phải đó là điều nên làm hay sao. Tôi muốn bảo anh rằng đây là dịp hiếm hoi anh được đến New York chơi, ấy thế mà lại tốn thời gian với tôi và các hoạt động vô bổ, trong khi lẽ ra anh phải thưởng thức chuyến đi này với những điều thú vị hơn mới đúng. Anh thể hiện rằng dù thế nào thì anh cũng đã rất vui, rất tận hưởng ngày hôm nay, chỉ là một ngày trong một cuộc đời dài đằng đẵng thôi mà, tất cả chỉ đơn giản là một ngày.
Sau đó, chúng tôi tạm biệt nhau. Hai ngày sau, nhiệm vụ thương thoả cuối cùng cũng đã hoàn thành, Hoàng Lâm trở về Việt Nam. Từ đó đến nay chúng tôi không có cơ hội gặp nhau nữa, chỉ trao đổi thông tin đôi ba lần qua mạng xã hội. Đêm hôm ấy, ngay khi trở về nhà tôi đã biết rằng mọi thứ sẽ như thế: rơi vào im lặng và rốt cuộc chẳng dẫn đến đâu.
Đột nhiên, một cảm xúc dậy động và tôi chợt hiểu điều mà Fiona đã nói về Giai Du: chẳng dẫn đến đâu cả, mọi thứ đều quẩn quanh, tắt tị, không được khai thông. Thì ra đây chính là điều Giai Du muốn nói, cuộc đời chính là như thế: chẳng có tiến lên hay rẽ ngoặt hay lùi lại, ta chỉ đứng im một chỗ, vĩnh viễn đứng im một chỗ.
Tôi cảm thấy không thở nổi, chống tay ngồi xuống giường và bắt đầu khò khè thở dốc. Một thứ gì đó đè lên ngực tôi, nặng trịch. Kể từ đó trở đi, thứ ấy luôn luôn hiện hữu trên ngực tôi, đôi khi nó lại nghiến vào và đột ngột làm tôi khó thở. Cuộc sống bỗng dưng trở nên khó khăn hơn một chút. Tôi theo dõi hơi thở của mình và cảm thấy dù sự sống cứ lởn vởn xung quanh nhưng tôi không có khả năng thu nạp được. Tôi không thể tóm lấy chúng để lấp đầy mình. Tôi cứ nghĩ ngày hôm ấy sẽ có một chuyện nào đó xảy ra, một bước ngoặt giữa tôi và Hoàng Lâm, nhưng chẳng có gì cả. Có lẽ tôi đã phá hỏng mọi thứ, tôi không biết nữa…
Về sau, tôi và Harry chia tay. Đến hôm nay, Harry có lẽ vẫn đang rong ruổi với những chuyến lưu diễn của mình. Chẳng có hào quang nào đến với ban nhạc của họ, cơ hội cũng không còn bao nhiêu, có lẽ một ngày nào đó họ sẽ tuyệt vọng và bỏ cuộc. Hoàng Lâm đã tái hôn với một phụ nữ khác và xây dựng được gia đình mới. Tôi cũng đã kết hôn. Fiona hài lòng với cuộc sống độc thân cùng hai chú mèo. Nhà xuất bản của tôi vẫn vậy. Tình hình văn chương vẫn vậy. New York vẫn vậy. Và nghệ thuật vẫn vậy. Tất cả đều bất động trong khi vẫn tin rằng bản thân đang di chuyển đến một nơi nào đó.
Bình luận
Chưa có bình luận