Chương 01. Điều chỉnh



Chương 01. Điều chỉnh


“Thơ ca phải vội vàng và thô ráp như ăn, ngủ hoặc tình dục. Ngẫu hứng và không duyên dáng như thời vàng son. Nhưng nó đã làm tròn bổn phận; đưa sự thật vào lưu trữ.”

V., Thomas Pynchon.


Chuyến tàu hoả đến ga Skarnopol băng qua hoang mạc Beregosta. Một vùng đất khắc nghiệt. Lão già Miroslavik bảo với tôi rằng hồi xưa, hồi thập niên 90, Beregosta không phải trông như thế này, cát đã lấn dần vào những đồng cỏ. Quá trình sa mạc hoá ở đây thật ghê gớm, nhanh chóng và dữ dội đến mức con người đành phải chấp nhận, không có cách nào kháng cự. Tôi không thể tưởng tượng nổi. Chỉ cần ba mươi năm, thiên nhiên có thể biến một vùng thảo nguyên thành hoang mạc và không còn chút gì của khung cảnh cũ nữa sao? Song, hồi thập niên 90 tôi vẫn chưa sinh ra, nên tôi chỉ biết nghe thế.

Hiện nay, Beregosta chỉ còn là một vùng đất chết, dành cho những nhóm du mục, những người bản địa cố bám trụ bởi vì họ chẳng còn cách nào khác, họ rong ruổi trên những con lạc đà, kiếm sống bằng những món đồ mỹ nghệ mà họ sẽ quảng cáo với du khách là “văn hoá của nơi này”. Tôi đã từng đến những túp lều của họ, xem họ bán những thứ gì: những hòn đá được đính lại với nhau bằng một loại nhựa cây nào đó mà đám du mục bảo chúng sẽ không gây ngứa, việc gắn bừa ấy tạo ra những hình hài kỳ quặc được tô phết quái đản; hoặc những mảnh xương khủng long thực ra chỉ là đồ thạch cao, chẳng biết được ép khuôn tạo hình thế nào; những khúc vải dệt tối tăm, đến cả những màu sáng nhất như vàng, cam, lục, lam cũng sẫm tối, u ám như bị lấm bẩn, mà cũng có thể là vậy thật. Tôi từng mua một cái răng khủng long từ họ, nó được khoét lỗ và luồn dây vào để làm mặt dây chuyền, đôi vợ chồng bán nó cho tôi bảo rằng sợi dây đã được họ cầu phúc, được tưới tắm bằng những lời kinh bí hiểm mà chỉ họ mới hiểu là đang cầu xin điều gì. Sợi dây cùng chiếc răng thạch cao sẽ bảo vệ tôi khỏi tai hoạ, đồng thời hỗ trợ tăng cường pháp lực cho chủ nhân. Vế sau thì tôi có thể cảm nhận được, song ở mức độ chẳng đáng nhắc đến, tôi hoàn toàn có thể tăng pháp lực bằng những dụng cụ hỗ trợ khác, giá thành rẻ hơn và hiệu quả cao hơn.

Lão Miroslavik bĩu môi khi tôi kể về cái răng với ông, ông chống hông, “Bọn người đó chỉ còn biết bám víu vào truyền thống du mục có vẻ bí hiểm của mình để kiếm tiền, trang trải cho đời sống chu du của họ. Những thứ này mà gọi là văn hoá gì chứ, một sự khai thác thương mại trắng trợn! Nó có giá bao nhiêu?”

Tôi nói số tiền mình đã bỏ ra để có được tấm bùa bình an.

Lão gật gù, như hài lòng, “Đấy, rõ ràng là buôn thần bán thánh! Cái giá đó cho một món đồ đáng vứt đi thế này à? Thậm chí nó còn không có tác dụng thẩm mỹ. Ai sẽ thấy nó đẹp chứ?”

Tôi đồng ý.

Trong lúc Miroslavik nạp thêm năng lượng vào đầu máy, tôi nhìn ra bên ngoài hoang mạc. Đằng xa dường như đang có một cơn bão cát nhỏ, nó khiến quang cảnh phía ấy chìm trong một tấm màn mịt mùng, phóng mắt ra chỉ thấy dày đặc một tầng bụi vần vũ, có vẻ khủng khiếp. Song, quan sát từ con tàu này thì trông không đáng sợ lắm, nó ở rất xa và chắc chắn chẳng điều gì có thể làm ảnh hưởng chuyến tàu quốc gia xuyên Bắc-Nam của chúng tôi. Con tàu được bảo vệ tuyệt đối với vô số lớp phép thuật. Đó là lý do chúng tôi có thể ung dung băng qua những vùng đất khắc nghiệt nhất, những cảnh quan ghê gớm nhất. Tuy nhiên, miêu tả thế lại khiến người khác lầm tưởng rằng đây là một phương tiện xịn sò, thật ra ngược lại, con tàu này đã già cỗi quá rồi, nó đã cống hiến quá nhiều đến mức rệu rã, vấn đề là không ai muốn cho nó nghỉ ngơi. Tôi và lão Miroslavik lắc lư trong phòng điều khiển, cảm nhận được cả sự chuyển động rùng rùng của đầu máy lan trong cơ thể mình. Dù quen với công việc cách mấy thì những cứ rung lắc này vẫn khiến tôi mệt mỏi, thậm chí là lộn ruột.

Miroslavik đã làm người lái tàu suốt cả cuộc đời mình. Hồi mới bước sang tuổi hai mươi, lão trèo lên đầu máy con tàu này và từ đó gắn chặt cuộc đời mình với những thiết bị trước mặt. Đã ngót nghét bốn mươi năm trôi qua rồi chứ không ít ỏi gì nữa. Chừng đó thời gian con tàu này sống cùng với lão, nó cũng đã hơn bốn mươi tuổi, cứ được bảo trì theo dịp, chưa từng đứng trước nguy cơ bị thay thế. Lão Miroslavik hiểu con tàu còn hơn cả cơ thể mình, lão đã đồng nhất bản thân với bộ máy, vì thế lão luôn luôn nắm quyền kiểm soát và tỏ ra bản thân hiểu biết hơn người khác. Song, đó là cái tật cố hữu của người già, tôi không chấp nhất lão chuyện đó. Tôi chỉ là một cậu soát vé làm việc ở đây chưa tới một năm, vả lại tôi không có ý định gắn bó với nghề, nếu có cơ hội tôi sẽ chuyển ngay sang nghề khác. Ai lại có thể làm một tay soát vé tàu cả đời chứ!

Lão Miroslavik vẫn thường gọi tôi là nhóc con hay tay gà mờ. Lão cố tỏ vẻ bản thân là sếp sòng, dù không cần thiết phải như thế. Mỗi khi nói đến những chủ đề đàn ông hơn, về chuyện làm tình, gái gú, lão lại càng hăng hái và tự tin. Dù không nói ra, nhưng tôi thừa biết kinh nghiệm với phụ nữ của mình hơn lão rất nhiều, dù tuổi đời cả hai chênh lệch đáng kể. Tôi tưởng tượng Miroslavik bất lực trong một nhà trọ tồi tàn, bên cạnh một cô gái điếm nóng bỏng, cái củ của lão thì chẳng có cách nào gọi dậy được, nó cứ nhũn ra khiến cả hai đều bối rối. Nhưng nếu có thật là vậy thì không thể trách Miroslavik, ta có thể trông đợi gì ở một lão già đây? Thoáng bối rối ấy sẽ qua và cô nàng nọ với kinh nghiệm xử lý tình huống thông thạo của mình sẽ biết phải làm gì để bù lại cho những việc khách hàng không thể làm, giúp khách hàng tạm quên đi sự yếu kém của cơ thể họ. Và Miroslavik sẽ tiếp tục thử lại vào lần sau.

Tôi không muốn nghĩ về điều đó, thế nhưng việc Miroslavik là một lão già độc thân gợi lên cho tôi một viễn cảnh ảm đạm. Có lẽ lão tưởng bản thân có thể mãi mãi là một thanh niên tráng kiện, đủ sức chinh phục các cô gái dù ở độ tuổi bao nhiêu đi chăng nữa. Đáng buồn là chúng ta không thể như vậy, đó là một ước mơ vô lý.

Tuy nhiên, ngoài cái tật hay tỏ vẻ thạo đời và giảng đạo ấy ra thì mọi thứ ở Miroslavik vẫn ổn, lão đàng hoàng và tử tế theo cách riêng của mình.

Tôi chào lão rồi qua khoang hành khách. Ở khoang vọng cảnh có hai cặp đôi vừa ngắm hoang mạc nắng nóng vừa trò chuyện với nhau, bên hàng ghế đối diện là một hội những người phụ nữ lớn tuổi ngồi trò chuyện, có lẽ do trong khoang nghỉ không được phép ăn nói lớn tiếng nên họ mới ra đây cho thoải mái. Tôi nhớ Giaidu ngồi ở khoang khách số hai. Ban đầu tôi không có ấn tượng với cậu ta, thật ra tôi không để ý đến sự tồn tại của cậu vì những điều cần làm sẽ có người đàn ông bên cạnh thực hiện giúp, cậu ta không động tay vào bất kỳ thứ gì và cũng không có ý định làm rõ sự hiện diện của bản thân. Người đàn ông ấy đưa hai tấm phiếu tàu cho tôi, tôi bấm lỗ chúng rồi trả lại cho ông. Cậu trai ngồi bên cạnh thu người trong cái áo rộng, mũ che đầu, như muốn trốn tránh phần còn lại của thế giới. Cậu ấy đã nhỏ nhắn sẵn mà còn cố thu mình lại nữa nên trông càng nhỏ hơn, ban đầu tôi đã nghĩ đấy hẳn là một học sinh cấp ba đi cùng với bố mình ra Bắc.

Khoang hành khách số hai khá vắng, tôi nhớ có một cặp mẹ con mà đứa trẻ đang rất khổ sở vì buồn nôn đến tái mặt, còn người mẹ có vẻ chẳng quan tâm gì đến đứa con cả. Tôi đã đưa cho thằng bé một cái túi giấy để cậu có thể nôn bất cứ lúc nào, đồng thời lấy lọ xịt hương cam sành của mình để xịt vào tay cậu, hy vọng sẽ giúp cậu đỡ say hơn. Vẫn còn một chặng đường dài nữa mới đến ga Skarnopol. Cuối khoang có hai người đàn ông đeo kính râm, mặc vest đen. Đó chính là họ, những người mà chúng ta đang nhắc đến ở đây. Trông họ giống với mọi người đàn ông mặc vest khác chúng ta vẫn bắt gặp trên đường mỗi ngày, tôi đã nghĩ hẳn họ là hai nhân viên văn phòng bình thường đang đi công tác. Một gã đang đọc báo và gã còn lại hỏi tôi khoang vọng cảnh đi hướng nào để gã ra đó hút một điếu thuốc. Gã còn chìa cho tôi một điếu nhưng tôi từ chối, bảo rằng mình không hút. Trên tờ báo gã còn lại đọc, tôi thấy tấm ảnh ăn mừng chiến thắng của Yulasha trong trận đấu phép thuật toàn quốc, vừa diễn ra vào cuối tuần trước, được in phóng to ở ngay trang nhất.

Yulasha là một người quen cũ của tôi. Giữa chúng tôi không chỉ là mối quen biết đơn thuần, tôi và cô từng hẹn hò với nhau hơn một năm hồi cả hai còn học ở trường Vịnh Olenyevo. Hồi ấy Yulasha đã tỏ ra là một pháp sư có tài, cô đứng đầu trường Vịnh trong những cuộc thi phép thuật nhưng có lẽ vì nhiều lý do – ví dụ như trường Vịnh Olenyevo không phải là một ngôi trường tiếng tăm – nên giai đoạn ấy Yulasha vẫn còn là một tài năng chưa được phát hiện. Cô luôn bị đánh giá thấp hơn những cô cậu học sinh ở những trường khác trong khu vực, các nhóm săn lùng tài năng luôn bỏ qua cô và cơ hội luôn được trao về tay người khác, dù Yulasha hoàn toàn có tư chất vượt trội hơn họ. Tuy nhiên, thêm một lý do nữa mang tính nội tại hơn, đó là cô quá khiêm nhường, không thích được nổi bật. Việc Yulasha giành chiến thắng trong đại hội năm ấy có thể nói là một thành tích không bất ngờ đối với những người đã quen biết cô từ trước, nhưng với những người khác, những kẻ mà trong mắt họ cô là một thí sinh vô danh tiểu tốt, thì lại là một sự bất ngờ và được bàn luận rôm rả. Tôi mừng khi nghe tin cô giành giải quán quân. Tôi không kìm nổi chút cảm giác tự hào khi nghĩ rằng mình từng quen biết một người như thế. Tuy nhiên đó cũng chỉ là một vài quan tâm rất nhỏ, tôi không có ý định sẽ liên lạc để chúc mừng cô hay gì khác.

Sau khi đã kiểm tra qua hết lượt hành khách, tôi quay lại khoang số hai. Bấy giờ, tôi nhìn đến chỗ ngồi của Giaidu và người đàn ông bên cạnh cậu lần nữa. Thứ khiến tôi chú ý là một mùi hương, không thể miêu tả được nó, tôi chỉ có thể nói là nó rất thơm, không phải mùi của hoa mà là mùi của cỏ cây thì đúng hơn, một mùi the mát trong lành khi ta bước đi trong một khu rừng rậm rạp và ẩm thấp. Tôi nhìn về phía họ và thấy Giaidu đã gục đầu ngủ, người đàn ông thì ngồi yên bên cạnh, ôm cái cặp táp của mình trong lòng. Tôi chú ý đến làn da của ông ta, nó đang xảy ra một hiện tượng hết sức kỳ lạ. Nó mốc lên và bong từng mảng. Một quá trình lột xác của loài máu lạnh? Trông cứ như một lớp da rắn cong queo trắng bóc vậy. Nhưng lớp da không bong thành một mảng, chúng rụng thành từng vụn nhỏ, mỗi lần ông ta đưa tay lên gãi mặt thì chúng lại rơi xuống đùi lả tả. Tôi không biết có phải mùi hương đến từ quá trình lột xác ấy hay không, tôi không thể chắc chắn.

Tôi bước đến, hỏi thăm:

“Cho hỏi, Ngài có vấn đề gì vậy ạ?”

Người đàn ông lắc đầu, xua tay trấn an tôi:

“Không, không sao! Xin lỗi, tôi sẽ không để rơi rớt da tróc của mình xuống sàn đâu. Chỉ là… đây là một căn bệnh.”

“Ngài có cần chúng tôi hỗ trợ y tế không?”

Người đàn ông lại lắc đầu:

“Không cần, cậu thật tử tế quá, nhưng không cần đâu! Chuyện thế này cứ xảy ra hoài ấy mà!” Đoạn, ông nói thêm, “Nếu có một chai nước suối thì tốt, tôi có thể kiếm nước ở đâu nhỉ?”

Tôi chỉ cho ông đường đến khoang ăn trưa, ở đó chúng tôi có đặt một dãy kệ nước đóng chai. Người đàn ông gật đầu cảm ơn nhưng vẫn không có ý định sẽ rời khỏi chỗ ngồi ngay.

Tôi ngước nhìn ra ngoài cửa sổ, cơn bão cát ở phía xa có vẻ đang tiến đến gần chỗ chúng tôi hơn khi nãy một chút, dường như nó đang đuổi theo con tàu, với tốc độ nhanh hơn những gì tôi đã ước chừng. Lúc tôi nhìn lên, vô tình tôi có đưa mắt về phía người đàn ông cầm tờ báo, tôi thấy ông ta đang hé mắt lén lút quan sát chúng tôi: chỗ tôi đang đứng, cạnh người đàn ông bị bệnh da liễu và cậu chàng đang ngủ. Ban đầu, tôi nghĩ là do chúng tôi đã lỡ nói chuyện lớn tiếng nên khiến gã ta phân tâm, nhưng rồi tôi đọc ra được một điều gì đó khác: dường như gã đang theo dõi hai hành khách bên hàng ghế này. Khi cả hai chạm mắt nhau, gã ta liền cúi xuống nhìn vào tờ báo, như vừa rồi chỉ ngước lên để suy nghĩ gì đó. Bấy giờ, tôi vẫn không cảm giác có gì kỳ lạ.

Một lát sau, người đàn ông khi nãy đã ra khoang vọng cảnh hút thuốc quay lại, ngồi vào chỗ của mình và nói nhỏ gì đó với bạn đồng hành bên cạnh. Hai người họ gật đầu với nhau. Còn người đàn ông đang lột da vẫn ngồi thẳng lưng, trong một tư thế có vẻ cứng nhắc và thiếu tự nhiên, như thể việc lột da khiến ông cảm nhận một cơn châm chích, không đau đến mức gào toáng lên nhưng đủ gây khó chịu và cần gồng người lên một chút để chịu đựng. Đoạn, ông ta nói với tôi:

“Nhờ cậu để ý chiếc cặp của tôi và cậu bạn này một lát. Tôi đi lấy nước rồi sẽ quay lại ngay!” Ông hất cằm về phía cậu chàng đang ngủ trong tấm áo căng phồng.

Tôi không rõ tại sao ông ta phải lo lắng cho cậu trai đến thế, cậu ấy đang chìm vào giấc ngủ rất ngon lành và trông chẳng đáng lo chút nào. Mối quan hệ giữa hai người họ có thể là gì nhỉ? Cha con, bác cháu, hay thậm chí là một lão già với tình nhân trẻ? Nhưng tôi vẫn gật đầu đồng ý, bảo rằng mình sẽ đứng đây xem chừng giúp ông.

“Cậu cứ ngồi vào chỗ của tôi cũng được!” Ông nói rồi đứng dậy, để chiếc cặp da tựa vào lưng ghế.

Không nghĩ gì nhiều, tôi ngồi xuống theo lời ông ta. Ông vội vàng rời đi ngay, ông khoác áo và đội mũ trùm lên đầu để người khác không bị tình trạng da mặt ông làm cho phát hoảng. Tôi nhìn qua cậu chàng bên cạnh. Giaidu hồi ấy vẫn còn nổi mụn đầy mặt, dù đã gần hai mươi, sau này mặt cậu ta sẽ bớt mụn mà chỉ còn sẹo rỗ. Hồi ấy Giaidu đầy đặn hơn sau này một chút, tuy vẫn là một cậu chàng còm nhom, dễ bị lầm tưởng là học sinh. Khi ngủ, trông cậu rất bình an, buông bỏ mọi phòng bị, chìm trong một cơn mơ sâu đến mức tôi nghĩ có lẽ cả đêm hôm qua cậu ta đã không ngủ vì lý do nào đó. Có thể thấy bụng cậu nhấp nhô, nghe được hơi thở đều đặn. Một số người ở toa vọng cảnh quay vào.

Người đàn ông rời đi một lúc thì cậu chàng thức dậy, vẻ mơ màng, nhìn qua tôi như kiếm người đi cùng mình nhưng không thấy. Cậu ta dè dặt khi nhìn thấy một người lạ ngồi cạnh, nhưng vẫn chưa biết nói gì. Nhờ bộ đồng phục nhân viên của hãng tàu, cậu mới yên tâm. Tôi giải thích ngay:

“Ông bác bảo tôi ở đây trông chừng cậu và đồ đạc, ông ấy sẽ quay lại ngay!”

Cậu chàng gật đầu, vươn vai khẽ và nhìn ra cửa sổ. Ánh nắng bên ngoài trải lên gương mặt mơ màng của cậu, hình ảnh gợi tôi nhớ đến những cậu ấm ngơ ngác trong các điền trang rộng lớn, ngủ quên trên những đống rơm, giữa một mùa hè trong sạch. Cậu hơi nhíu mày vì ánh sáng chói mắt, nói khẽ:

“Cơn bão cát đó đang tiến về phía này à?”

Tôi nhìn theo cậu và thấy đúng là tầng bụi mù mịt ấy đang đến rất gần.

“Chắc vậy, nhưng không sao đâu, thiết bị khí tượng báo rằng đó không phải là một cơn bão quá lớn. Dù nó có tấn công trực diện, nuốt trọn chúng ta trong tâm nó thì cũng chẳng sao cả!” Tôi trấn an cậu.

Đôi mắt ấy vẫn mải nhìn ra bên ngoài, không rõ có nghe thấy lời tôi nói hay không. Dường như cậu trai trẻ này đang tìm kiếm gì đó bên ngoài hoang mạc kia: những cái liều của dân du mục, đoàn lạc đà thồ những tấm vải cuộn và lương thực, hay những con người khắc khổ, kiệt quệ bị ràng buộc vào nhau bởi truyền thống, với nước da đen sạm của họ, thường xuất hiện thoắt ẩn thoắt hiện đâu đó. Dường như cậu ta đang tính toán, một bài toán liên quan đến cơn bão cát, ánh nắng và những luồng không khí nóng ẩm đối lưu, giao thoa, vút lên hay hạ xuống. Ánh nhìn của cậu, dù có vẻ thơ thẩn, nhưng chứa đựng một tính toán nào đó, một suy tư triết học nào đó. Tôi nghĩ đây là cái bệnh cố hữu của những kẻ như cậu.

Một lát sau, cậu lại nói tiếp, vẫn là cung cách vu vơ như ném một câu thoại vào khoảng không, bất kỳ ai cũng có thể đáp lại nếu muốn, “Nikrodan đi lâu thế nhỉ?”

Ra người đàn ông đó tên là Nikrodan. Tôi hỏi cậu, không phải với mục đích tò mò mà chỉ để có chuyện lấp đầy khoảng trống:

“Ông ấy là quản gia của cậu à?” Họ không thể là bố con vì cách xưng hô gọi thẳng tên mà cậu ta dành cho đối phương.

“Không, Nikrodan là người đại diện của tôi.” Cậu trả lời, vẫn chú tâm vào cơn bão và vùng hoang mạc nhuốm lớp màu đỏ cam.

Đại diện cho việc gì, đại diện pháp lý, đại diện phát ngôn hay đại diện trong công việc? Một cậu chàng trông nhỏ tuổi như thế này liệu có thể có công việc nào phức tạp đến mức cần người đại diện hay bảo hộ? Nhưng tôi không thể hỏi sâu về điểm này, vì ngay khi ấy, hai người đàn ông ở hàng ghế cuối toa đã bước đến bên cạnh chúng tôi. Họ đứng sừng sững bên cạnh tôi, như một thế lực đầy điềm gở. Thật ra tôi sẽ không dựng hết cơ chế phòng bị như thế nếu không vì phản ứng của cậu chàng bên cạnh.

Khi thấy hai người đàn ông lạ mặt, cậu ta càng co người thu lại trên băng ghế hơn nữa. Cậu cố gắng nép hết vào góc, biến bản thân trở nên khuất mắt và bé nhỏ. Ánh mắt cậu có gì đó sợ sệt, bất an và thậm chí tôi còn thấy cơ thể cậu dưới tấm áo có hơi run rẩy. Tôi nghĩ chúng là biểu hiện của một người bị chứng sợ xã hội. Sự phòng bị quá mức của cậu cũng khiến tôi đâm lúng túng theo. Hẳn phải có lý do nào đó để người đàn ông tên Nikrodan ngần ngại rời chỗ ngồi và bảo tôi trông hộ người bên cạnh.

“Xin cậu thứ lỗi, chúng tôi có thể nói chuyện với cậu chàng này một chút được không?” Họ hỏi tôi, như thể tôi mới là người có quyền quyết định. Hẳn là do tôi đang chắn giữa họ và đối tượng họ muốn tiếp cận.

Tôi trả lời, “Các anh có cần gì thì cứ nói ngay cũng được.”

“Chúng tôi muốn nói chuyện riêng với cậu ta!”

“Có chuyện gì mà cần phải như vậy, tôi được nhờ trông chừng cậu ấy, hai người hãy đợi người đại diện của cậu ta quay lại rồi trao đổi với ông ta!” Tôi nhìn thẳng họ.

Người đàn ông gầy và cao dỏng nhếch môi, “Trông chừng là thế nào? Cậu ấy có phải con nít đâu?”

“Vậy tôi sẽ hỏi ý kiến cậu ấy.” Tôi xoay qua người bên cạnh, “Cậu muốn nói chuyện với họ không?”

Cậu trai nhìn tôi với vẻ bối rối, như thể đến một câu hỏi đơn giản đến vậy mà cậu cũng không hiểu và không thể tự quyết. Tôi thắc mắc cậu ta rốt cuộc kém giao tiếp và thần kinh yếu ớt đến mức nào chứ!

Đứa trẻ mà tôi đã đưa cho một cái túi nôn bắt đầu nôn thốc nôn tháo, tiếng nôn oẹ vang đến tận chỗ chúng tôi. Hai gã đàn ông nhìn về phía đó, như một tình huống căng thẳng bị phá đám bởi một chuyện hết sức vớ vẩn. Một đám người từ khoang bên cạnh bước vào, ngồi xuống chỗ của mình, có vẻ họ vừa có một cuộc đi dạo qua các khoang hoặc tìm nhà vệ sinh.

Tôi nói với họ, “Các Ngài đã thấy chưa, cậu ta không muốn nói chuyện riêng với hai người. Cậu ấy có vẻ không thích người lạ, không thoải mái và cũng không muốn di chuyển đi đâu cả!”

Không biết điều gì khi đó đã thúc ép tôi phải hành động cứng rắn để bảo vệ một chàng trai xa lạ với mình đến mức làm phật ý những người trông có vẻ nguy hiểm như thế nữa. Nhưng chỉ cần nhìn vào, ta có thể biết được bản thân phải bảo vệ ai. Những người mặc vest thì to con lớn tướng, mà cậu chàng yếu ớt kia lại không có sự phòng bị nào. Vả lại, tôi thừa biết từ nãy đến giờ họ đã im lặng quan sát, đợi cho Nikrodan rời đi rồi mới lò dò tiếp cận đối tượng của mình. Nếu không có gì khuất tất thì tại sao lại cần thập thò đến vậy?

Vả lại, có một điều gì đó thúc bách tôi phải bảo vệ cậu chàng bên cạnh bằng được, nỗi bất an của cậu ta khiến tôi cũng nảy lên một cơn bất an mơ hồ nào đó.

Song, trái ngược với mọi đánh giá của tôi, người đàn ông thấp lùn móc túi, chìa ra cho tôi tấm thẻ hành nghề. Cả hai tay đàn ông là người thuộc quân đội cấp cao quốc gia, làm việc cho chính phủ. Hai tấm thẻ rõ ràng có quyền lực tuyệt đối, cũng ngầm đe doạ rằng họ có thể làm gì nếu tôi cứ cứng đầu không chịu lui khỏi chuyện này. Tôi tự hỏi, sao một cậu công tử nhỏ nhắn và một người đàn ông mắc bệnh da liễu lại có liên quan đến người của chính phủ? Liệu có một âm mưu nào?

“Chúng tôi tin rằng những tấm thẻ đã đủ nói thay chúng tôi nhiều điều! Bây giờ, hy vọng cậu nhường chỗ cho chúng tôi, để Giaidu có thể cùng chúng tôi trao đổi vài chuyện!”

Thì ra đó là tên của cậu ta. Một cái tên kỳ lạ, có lẽ là tên nước ngoài – trông cậu đúng thật có nét của người ngoại quốc, một quốc gia nào đó ở phương Đông – hoặc một biệt danh, nhưng tôi không nghĩ những kẻ thuộc chính phủ đi làm nhiệm vụ lại gọi đối tượng họ muốn trao đổi bằng biệt danh, trừ khi đủ thân thiết hoặc cái biệt danh ấy chứa đựng điều gì đặc biệt.

Vẻ mặt Giaidu càng căng thẳng hơn, hai chân cậu co lại trên ghế. Tôi cảm thấy mình không thể cứ vậy mà để mặc cậu ta được. Tôi tìm cách kéo dài thời gian để Nikrodan quay lại, có thể cái vẻ hấp tấp của hai người trước mặt là do họ sợ người đi cùng Giaidu. Dù đã có thuật điều hoà nhiệt độ trong tàu, nhưng hai kẻ đang đứng vẫn đổ mồ hôi lấm tấm trên cổ, có thể do thân nhiệt hai gã đã vốn vậy rồi, hoặc là do bộ đồ vest.

“Cái gì đây?” Tôi giả ngơ, nhăn mặt và bĩu môi, đoạn phất tay với những tấm thẻ đồng, “Tụi anh nghĩ có thể lừa người khác bằng mấy món hàng có thể kiếm được bằng vài ba xu này hả? Vả lại, cái chức vụ trong chính phủ gì đây, tôi chưa nghe tên đơn vị của các anh bao giờ: Cục Quản lý Nghệ thuật và Văn hoá. Cục của các anh có chức năng gì cho đất nước này vậy?”

Trò khích tướng của tôi dù khá trẻ con nhưng có vẻ vẫn hiệu nghiệm, tuy nhiên tác dụng chỉ kéo dài được vài giây. Khuôn mặt hai kẻ ấy hiện lên những cái nhíu mày khó chịu rồi lại trở về trạng thái cứng rắn như không gì có thể xâm phạm.

Giọng họ nghiêm nghị hơn, lần này còn kèm theo cả hành động, “Nếu cậu đã không chịu hợp tác, chúng tôi đành phải sử dụng biện pháp mạnh vậy!”

Nói đoạn, gã mập lùn đưa bàn tay ra trước mặt, như đang muốn bắt lấy thứ gì đó lơ lửng trong không khí.

Ngay tức khắc, cơ thể tôi đông cứng lại. Tôi giật mình nhận ra bản thân đã bị trói chặt bởi một lực vô hình. Sau đó, cả người tôi bay lên càng lúc càng cao như một quả bong bóng, hai chân lơ lửng giữa không trung. Tôi quýnh quáng bảo họ dừng lại nhưng chẳng được gì. Những hành khách xung quanh bắt đầu tò mò nhìn sang chỗ chúng tôi. Có vẻ cảm thấy mọi thứ đã trở nên ồn ào và rắc rối không cần thiết nên hai người đàn ông muốn nhanh nhanh chóng chóng cho xong. Họ đặt tôi sang một bên, sau đó đến xốc người chàng trai dậy, kéo cậu ta đi. Tôi thúc thủ, chẳng thể thi triển bất kỳ loại phép thuật nào mình có. Còn Giaidu, cậu ấy có vẻ cũng không phản kháng lại được gì. Thậm chí, trong khoảnh khắc ấy tôi đã nghĩ cậu chàng thực chất là một người vô năng, kiểu người sinh ra mà không có bất kỳ sự liên kết với thế lực tối cao nào. Tuy không nhiều, song vẫn có người mắc phải tình trạng vô năng và trông họ cũng giống cậu ta: luôn yếu ớt, tự biết mình là người bị gạt ra bên lề, trong khi xung quanh chỉ toàn những kẻ mạnh mẽ và có thể giết mình mà mình không có cách nào phản kháng.

Giaidu bị kéo tay, lôi đi. Cậu chàng quay quắt, hãi hùng, như một cánh cửa nào đó đang đóng lại trước mắt và sự chống cự yếu ớt của cậu ta cứ như một đứa trẻ muốn vùng chạy khỏi phụ huynh hơn là một người đang đối diện với hiểm cảnh. Nhìn cảnh tượng khi ấy, trong lòng tôi dường như có một thứ gì bị vỡ và tràn ra bên ngoài, tôi không giải thích được song tôi đã cảm nhận được điều đó, không dựa vào đâu cả. Tôi hiểu rằng bất cứ điều gì ảnh hưởng đến cậu chàng ấy nghĩa là ảnh hưởng trực tiếp đến tôi. Việc Giaidu gặp nguy chắc chắn không chỉ là vấn đề của riêng cậu mà còn liên hệ mật thiết với một điều gì đó lớn hơn, mang tính định mệnh và bản chất. Dù không rõ những người của chính phủ muốn làm gì với Giaidu, nhưng tôi có cảm giác nó sẽ đem đến một bước ngoặt mà tôi không hề mong muốn.

Lợi dụng kẽ hở khi họ không chú ý đến, tôi thầm gọi ra một luồng phép rất khẽ. Hai hàng ghế dẫn qua cửa trước mặt họ nối liền với nhau, chặn đứng họ lại.

Người mẹ ẵm đứa con trai vào lòng. Mặc kệ túi giấy đựng đầy chất nôn rơi xuống đất bắn tung toé, hai mẹ con chạy đến cuối toa để tránh một cuộc chiến có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Những người khác cũng tất tả trốn đi, họ đứng dậy, gom đồ và di chuyển sang toa bên cạnh. Hai gã đàn ông chật lưỡi, như đối với họ ban đầu tôi chỉ là một hòn đá ngán chân và bây giờ hòn đá ấy dần trở nên phiền phức, họ muốn tung mũi giày gạt tôi qua bên đường. Một chút phép thuật làm thay đổi kích thước và hình dáng đồ vật của tôi chẳng ăn nhằm gì. Tên cao lêu nghêu bế Giaidu lên và chỉ bằng một cú nhảy, hai gã đã phi qua hàng ghế rất nhẹ nhàng.

Tuy nhiên, như chợt nhận ra một điều mà mình đã quên mất, hai gã nhìn nhau. Gã cao hất cằm đến chỗ ghế ngồi vừa nãy, như ra lệnh cho gã mập. Cái cặp táp.

Đôi mắt Giaidu mở to kinh hoàng. Lần đầu tiên kể từ khi vụ việc rắc rối xảy ra, tôi biết được giọng của Giaidu thực chất không hề nhỏ tí nào. Tôi nghe cậu hét lên:

“Không, không được chạm vào nó!”

Tôi lộn một vòng, bay đến chỗ cái cặp và đoạt lấy trước khi nó bị rơi vào tay của gã mập. Gã gầm lên, nhào đến chỗ tôi nhưng tôi sống chết phóng đi. Vừa chạy, tôi vừa niệm chú. Những cánh cửa mọc lên san sát ngăn giữa tôi và hắn. Tuy nhiên, chắc chắn khả năng của tôi không thể sánh bằng người của chính phủ được, tôi bị gã mập lùn tóm lại, hắn kéo tôi về phía hắn bằng thần lực. Tôi lơ lửng giữa không trung, cố ôm ghì lấy món đồ trong lòng. Ngay khi ấy, tôi nhận ra điểm quan trọng: khả năng điều khiển của đối thủ nằm ở bàn tay của hắn, tôi cần tấn công vào chỗ đó để thoát thân. Nhưng trên cơ thể tôi không có vũ khí hay vật nhọn nào.

Vật nhọn. Tôi nghĩ đến một thứ.

Khi tên ấy kéo tôi lại chỗ hắn. Thần lực của đối thủ bắt đầu yếu dần, tôi nhận ra gã bắt đầu cạn sức. Tôi phóng đến chỗ gã. Trong lúc chống cự, tôi gạt chân đối thủ rồi móc sợi dây chuyền có mặt hình răng khủng long ra. Tôi lấy hết sức bình sinh ghì bàn tay hắn xuống sàn tàu, vung cái răng nhựa lên và đâm mạnh nó vào bàn tay gã.

Tên ấy hét lên, hoàn toàn mất khả năng khống chế tôi. Nhanh chóng, tôi vùng thoát sang khoang bên cạnh.

Tôi chỉ kịp nghe tên cao dỏng bảo rằng thôi đừng để ý đến cái cặp đó, họ sẽ lấy lại nó sau, bây giờ hãy tập trung “xử lý tác giả” đã. Có nhiều từ ngữ mà khi ấy tôi không hiểu lắm, nhưng bởi vì chỉ lo chú tâm vào việc chạy thoát nên tôi không để ý nhiều.

Trong khoang bên cạnh, tôi thấy Nikrodan tất tả chạy đến chỗ mình. Mồ hôi đổ trên mặt ông nườm nượp, thấm ướt cả những mảng da bong tróc, khiến chúng mềm lại dính chặt trên mặt ông. Ông hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra, có phải Giaidu đã bị bọn người của chính phủ kiểm soát và kéo đi rồi hay không? Tôi chỉ kịp gật đầu và Nikrodan ngay lập tức lao đi về phía khoang vọng cảnh. Về sau, tôi mới hiểu Nikrodan vội vã và lo lắng như vậy không hẳn là vì ông lo cho an nguy của Giaidu, ngược lại, ông lo cho an nguy của hai gã mặc vest đen thì đúng hơn. Trước khi lao đi, tôi chỉ nghe ông nghiến răng sin sít:

“Chết tiệt, mấy tên đó có biết bản thân đang làm gì không vậy?” Tôi cũng không có đủ thời gian để hiểu câu này nốt.

Tôi không đuổi theo ngay, tôi còn chần chừ đứng lại bởi vì ngay lúc đó bỗng nhiên có một sự tò mò thúc bách, tôi muốn xem thử thứ gì đang được đựng trong chiếc cặp mình ôm trong lòng, dù sao chính tôi đã giành lấy và giữ an toàn cho nó bằng cả tính mạng.

Nhưng tôi chỉ thấy một tập giấy in nằm trong cặp. Trang đầu tiên đề hai chữ “Bản thảo” to tướng và một hàng tiêu đề, có lẽ là một tiểu thuyết, chỗ tác giả đề “Giaidu”. Tôi lật xem thử. Rõ ràng đấy là một cuốn tiểu thuyết. Chỉ cần đọc vào đoạn đầu tiên, với những dòng tả cảnh và sự xuất hiện cách nhân vật, tôi chắc chắn đó là một tiểu thuyết. Nhưng tôi không có đủ thời gian để nắm bắt nội dung đầy đủ của nó. Một bản thảo tiểu thuyết? Vậy ra Giaidu là một nhà văn. Tôi nhớ đến chức danh của hai gã đàn ông: Cục Quản lý Nghệ thuật và Văn hoá. Có thể liên kết những điều này với nhau, người của cục Quản lý có quan tâm đến bản thảo của Giaidu. Nhưng rốt cuộc họ muốn làm gì với tập giấy này? Nó chứa đựng điều gì và Giaidu đã viết ra thứ gì mà khiến cậu ta rơi vào hoàn cảnh bị truy đuổi? Tôi không thể rõ được, nhưng dường như mọi thứ đang nằm trong một chuỗi âm mưu nào đó và thứ tôi đang giữ trong tay chính là trung tâm của mọi vấn đề.

Những hành khách đến hỏi tôi rốt cuộc họ phải làm sao đây, liệu họ có còn an toàn trên chuyến tàu này hay không và bây giờ, khi khoang trước đã tan nát, họ phải ngồi đâu. Tôi trấn an họ, bảo rằng bây giờ họ cứ ngồi xuống bất kỳ chỗ trống ở bất kỳ toa nào, dẫu sao chuyến tàu này cũng không đông lắm, và đợi đến khi mọi chuyện được giải quyết xong. Tôi đảm bảo rằng vụ việc này chỉ là chút xích mích cá nhân và hỗn loạn nhỏ, sẽ không ảnh hưởng đến ai cả, dù chính bản thân tôi cũng không chắc rằng chuyện gì đang diễn ra. Sau đó, đội quản lý xuất hiện, tôi đi cùng với họ đến toa vọng cảnh.

Ở đó dường như đã xảy ra một cuộc tranh cãi lớn, may mắn là có vẻ vẫn chưa ai động tay động chân hay dùng phép gì. Có lẽ họ cảm thấy khi đối diện với một người vô năng như Giaidu, việc dùng phép là không cần thiết và thậm chí có phần hèn hạ. Nhưng Giaidu co rúm lại trước họ, vẫn quyết định thụ động dù những người xung quanh không ngớt lời tranh cãi với nhau. Tôi cảm thấy nhờ đó mà tình hình không quá tệ: từ một cuộc đấu phép đánh đấm bạo lực nay đã biến thành một cuộc tranh cãi thuần tuý giữa các quý ông.

Nikrodan yêu cầu hai gã đàn ông thả Giaidu ra và không được phép ép buộc hay làm cậu ta sợ hãi. Hai người kia phân bua:

“Chúng tôi không hề có ý định gây thương tích gì đến tác giả, chúng tôi chỉ muốn trao đổi!”

“Nhưng hãy nhìn Giaidu hiện tại đi!” Nikrodan đưa hai tay ra trước, “Trông cậu ta có giống một người đang thoải mái với tình huống này hay không? Có thể trao đổi gì nếu các anh hành động như thể người khác là tội phạm truy nã: theo dõi, tiếp cận và cưỡng bách?”

“Chúng tôi thừa biết mọi cách thức nhẹ nhàng đều không hiệu quả. Chính phủ từng thử những cách ấy rồi nhưng chẳng có kết quả gì. Chúng tôi đã quyết định phải thực hiện những hành động mạnh tay hơn!” Tên cao dỏng nói, một tay y vẫn vòng qua bờ vai gầy của Giaidu, siết lại khống chế. Mặt Giaidu xanh xao, bất an. Hắn nói tiếp, “Chúng tôi đã được chính phủ trao toàn quyền xử lý nếu thật sự không còn cách giải quyết nào khác.”

Đó là một lời đe doạ. Bọn họ được trao quyền để “tiền trảm hậu tấu”.

Tôi nhìn thấy ở phía bên kia khoang, lão Miroslavik đang quan sát mọi thứ qua ô kính vuông, dường như cũng muốn mở cửa xông về phía này nhưng vẫn còn chần chừ. Khoang vọng cảnh là một khoang mở, nó hứng chịu hơi nóng của hoang mạc Beregosta, nó khiến cơ thể chúng tôi dính dấp mồ hôi. Hai người bảo an bên cạnh tôi lên tiếng, như muốn dàn xếp vụ việc:

“Các anh cần thả người ra trước đã, chúng tôi không muốn có bất cứ vụ bắt bớ, ẩu đả nào diễn ra trên chuyến tàu này!”

Hai kẻ ấy, rất nhanh chóng, chìa ra trước mặt nhân viên bảo an những tấm thẻ hành nghề. Đây là cách tốt nhất để kiểm soát những tay bảo an, hai tấm thẻ chứng minh rằng ở đây ai mới là sếp và ai phải nghe lời ai. Những kẻ làm việc trong “Chính phủ” luôn đem đến cảm giác cao cấp hơn, đáng để ta nhún nhường hơn.

“Chúng tôi được lệnh áp giải Giaidu. Chúng tôi còn được phép xử lý cậu ta nếu có hành vi chống cự quá khích!” Tên lùn nhấn mạnh lại lần nữa nhiệm vụ của mình, “Chúng tôi đã được trao cho quyền đó, cậu trai này là một thành phần đặc biệt đã bị kết án vắng mặt, tội của cậu ta rõ ràng như vậy đấy! Thế nên, dù bất cứ ai…”

Gã chưa kịp nói hết câu thì ngay lập tức bị Nikrodan chặn họng bằng một cú đá sái quai hàm. Máu trong miệng gã bắn lên cửa kính vọng cảnh. Không ai trong chúng tôi quan sát được hành động của tay Nikrodan, ông ta có khả năng dịch chuyển tức thời hoặc là di chuyển thần tốc. Lão Miroslavik há hốc mồm, hình ảnh trên cửa kính của lão trông như một bức bích hoạ kỳ quái. Hành động của Nikrodan đã khởi đầu cho một chuỗi ẩu đả mới. Tên lùn phản công bằng một cú bay đến, dùng hai chân mình câu lấy cổ Nikrodan, định quặp cổ ông. Nhưng nhanh chóng, người đàn ông lớn tuổi mới là người vặn ngược cơ thể của đối thủ, áp chặt hắn ta xuống sàn tàu. Cả con tàu run lên.

Đột nhiên, mỗi nỗi lo lắng xa xôi ùa đến chỗ tôi. Tôi nhìn ra ngoài cửa đoàn tàu. Một thứ gì đó đang đến. Chuyển động bên dưới mặt đất chỗ chúng tôi đứng không phải xuất phát từ cuộc ẩu đả, song dường như chỉ có tôi để ý đến nó trong khi tất cả mọi người đang tập trung vào đánh đấm. Tôi hiểu ra ngay thứ gì đang đến. Cơn bão cát ngoài kia, nó đang đến chỗ chúng tôi với tốc độ rất nhanh, như thể nó sắp sửa san phẳng tất cả mọi thứ, sẽ nuốt mọi thứ vào trong bụng nó.

Tên cao dỏng kéo Giaidu vào một góc, kinh hoàng nhìn mọi thứ đang diễn ra. Y bặm môi, cơn giận dữ bốc lên ngùn ngụt. Y ấn bàn tay mình vào ngay thái dương Giaidu, với ngón trỏ và ngón giữa chĩa ra tạo thành hình khẩu súng. Y gào lên:

“Chuyện này là do các ngươi quá manh động! Đừng có trách!”

Giaidu trợn trừng, hiểu rõ chỉ cần một cú bóp cò, bản thân sẽ nhanh chóng bước sang địa vực của cái chết. Nikrodan hét bảo tên nọ dừng lại, nhưng không thể xoay xở kịp với hành động của đối phương. Cánh tay tên ấy nảy lên rất khẽ. Ngay khoảnh khắc cú bắn diễn ra, viên đạt phóng khỏi ổ, cò súng nảy lên, tôi ngỡ như thế giới không còn bất kỳ âm thanh nào nữa.

Bởi khi đó, cơn bão cát ào đến, nhấn chìm mọi thứ trong bóng tối. Một tấm màn đen quét qua, tiếng vần vũ rú vang, rít đặc trong không khí. Con tàu run lên và những bộ phận kim loại của nó kêu gào những chuỗi âm thanh đinh tai nhứt óc. Chúng tôi chìm trong bóng tối.

***

Tôi giật mình, mở mắt ra.

Tôi đang đứng trước Nikrodan và Giaidu, tay vẫn ôm cứng chiếc túi đựng tập bảo thảo, ép sát nó vào ngực. Đến khi Nikrodan nhẹ nhàng rút nó khỏi tay tôi, tôi mới bần thần nhìn họ.

Dường như tôi vừa mơ một giấc mơ. Mọi thứ không có thật.

Tôi nhìn về cuối khoang. Chỗ ngồi của hai gã mặc vest đen trống không. Khi ấy, dù vẫn chưa hiểu điều gì vừa mới diễn ra, nhưng tôi cảm nhận được một cơn hụt hẫng, một sự mất mát khủng khiếp nổi lên bao trùm chính mình. Tôi biết, có nhiều thứ đã hoá thành hư vô. Hai gã đàn ông đeo kính đen không còn ở đó nữa.

Tôi nhìn Nikrodan, sau đó nhìn qua Giaidu. Cậu chàng nằm co chân trên ghế, vẻ mặt nhìn ra ngoài cửa sổ nhuốm màu sầu muộn và mất mát sâu xa. Cậu ta cắn chặt môi, như người vừa lỡ gây ra một tội lỗi nào đó mà chính cậu cũng đau đớn vì hành động ấy. Nikrodan bảo tôi ngồi xuống chỗ của ông để trông chừng Giaidu và chiếc cặp trong lúc ông đi lấy nước ở khoang dùng bữa. Mọi thứ lặp lại y như lần trước, nhưng lần này có một khoảng trống không thể được lấp lại.

Tôi như một con rối, trơ khấc ngồi xuống chỗ người đàn ông và nhìn ra ngoài hoang mạc. Cơn bão đã biến mất, thậm chí khung cảnh bên ngoài khá quang đãng, trong lành, thậm chí còn không có lấy một cơn gió thốc bụi cát nào. Giaidu nhắm mắt lại, thở dài và tôi ngỡ ngàng quan sát dòng nước mắt chảy trên mặt cậu. Cậu đưa tay lau sạch nó đi.

Khác với lần trước, lần này không có hai người đàn ông làm việc trong chính phủ nào đến gây phiền cho chúng tôi. Tôi chỉ im lặng ngồi đó bên cạnh Giaidu, với hàng nghìn câu hỏi, song rốt cuộc chỉ biết lặng người và đông cứng trên ghế.

Sau một lúc im lặng, Giaidu mới khẽ khàng lên tiếng, như muốn giải thích cho tôi hiểu một điều gì đó dẫu tôi không đặt ra câu hỏi:

“Họ muốn cướp lấy bản thảo đó.”

“Tại sao?” Câu hỏi lọt khỏi môi trước khi tôi kịp ý thức về nó.

“Có một số bản thảo sẽ phải chịu tình cảnh ấy: bị đốt, biến mất trong im lặng, không bao giờ được công bố, bị tiêu huỷ. Đôi khi, đó là số phận của văn chương! Có những người muốn ngăn chặn, không cho phép một số tác phẩm được viết ra, họ sẽ truy đuổi những bản thảo mà họ cho rằng có vấn đề! Có rất nhiều bản thảo như thế!”

Tôi không đáp lại, nhưng tôi hiểu đối phương đang muốn nói gì. Tôi muốn hỏi cậu chàng là chuyện gì đã xảy ra với hai người đàn ông nọ, sao họ lại biến mất như thể chưa bao giờ tồn tại, liệu ngoài chúng tôi ra có ai nhớ đến sự tồn tại của họ không, hay họ đã hoá thành “hư vô” rồi? Nhưng một phần trong tôi sợ hãi việc phải biết sự thật, tôi không có đủ can đảm để hỏi những câu ấy. Giaidu có vẻ đã nhìn ra những điều tôi đang băn khoăn, cậu nhìn tôi, im lặng, rồi lại nhìn ra hoang mạc trải rộng.

Đứa trẻ nôn oẹ vào chiếc túi tôi cho nó. Một đám người ở khoang khác quay lại chỗ ngồi, con tàu vẫn di chuyển đều đặn. Sau đó, Giaidu lại nói tiếp:

“Anh nên liên lạc với Yulasha, anh vẫn còn yêu cô nàng và tình yêu thì luôn cần được nói ra. Cứ liên lạc với cô ấy và nói rằng anh nhớ cô, rằng anh chưa từng ngừng yêu cô suốt chừng ấy năm qua. Nếu không, anh sẽ hối hận lắm đấy!”

Tôi bất ngờ, đột ngột thẳng lưng lên, rồi xoay qua nhìn cậu ta. Song, Giaidu đã nhắm nghiền mắt, như ngay lập tức đã chìm vào một giấc ngủ sâu. Sau đó, Nikrodan quay lại, cảm ơn tôi đã trông chừng Giaidu và chiếc cặp giúp ông. Người đàn ông ngồi vào chỗ, đưa chai nước lên miệng và uống ừng ực. Tôi trở về vị trí đầu tàu và thấy lão Miroslavik đang cung cấp thêm năng lượng cho đầu máy. Lão ta chắc chắn không còn tí ký ức gì về chuyện đã diễn ra. Cứ như thể chuyện đó không còn là một phần lịch sử nữa và hai người đàn ông kia, dù tôi không biết họ, cũng đã biến mất khỏi sự tồn tại của thế gian. Mọi thứ thật hoang đường, chắc chắn đã có sự can thiệp từ phép thuật. Phép thuật. Tôi rùng mình. Tôi lại bần thần nhìn ra hoang mạc cho đến khi Miroslavik đến vỗ vai và hỏi tôi có vấn đề gì hay không. Tôi lắc đầu, bảo với lão là mình ổn, lão cười cười và quay về với chuỗi chuyện phiếm của chúng tôi.

Chuyến tàu chầm chậm tiến về Skarnopol, đúng với lộ trình cố hữu mà nó sinh ra để thực hiện.

***

Tầm một tháng kể từ sự kiện khó hiểu đó, tôi bắt xe đến thủ đô để tìm gặp Yulasha. Khi ấy, cô vẫn còn trong giai đoạn tất bật với những phóng viên, những cuộc phỏng vấn, chụp hình tạp chí và những cơ hội nghề nghiệp mới. Yulasha bất ngờ khi tôi đến gặp cô. Chúng tôi đã không còn liên lạc với nhau rất lâu và tôi cứ nghĩ điều này sẽ dẫn đến nhiều thứ ngượng ngập.  Song, không phải, Yulasha đón chào tôi nhiệt thành, bảo rằng suốt khoảng thời gian qua thỉnh thoảng cô vẫn tự hỏi tôi đang sống thế nào, đang ở đâu. Tôi và cô trao đổi với nhau về những điều đã diễn ra sau khi cả hai tốt nghiệp trường Vịnh và tình hình cuộc sống ở thời điểm hiện tại.

Yulasha bấy giờ đã trở thành một con người khác, hay nói đúng hơn là cô được sống cuộc đời đáng lẽ cô phải sống từ lâu rồi, nó vốn dĩ luôn dành cho cô. Vài tháng sau, chúng tôi chính thức hẹn hò. Hiện tại, tôi và cô đã có hai đứa trẻ đáng yêu trong nhà, mọi thứ diễn ra chậm rãi và ổn định. Nghĩ lại, tôi rất mừng khi năm ấy đã nghe lời khuyên của Giaidu, dù không rõ vì sao cậu ta lại biết. Nếu không có lời khuyên đến đúng thời điểm, có lẽ cuộc đời tôi đã không đi theo hướng hiện tại mà rẽ sang một hướng hoàn toàn khác, ai biết được.

Không phải bước ngoặt xảy ra trên chuyến tàu hoàn toàn không ảnh hưởng gì, song có thể đây chỉ là ám thị cá nhân tôi mà thôi. Kể từ hôm đó trở đi, thỉnh thoảng tôi hay bị nặng ngực và khó thở, từ bé đến lớn hiện tượng kiểu này chưa từng xảy ra. Tất nhiên những cơn khó thở phải lặp đi lặp lại đủ nhiều mới khiến tôi để tâm đến mức ấy. Đôi khi, đang trong trạng thái bình thường thì đột nhiên cơn khó thở ập đến với tôi, tôi cảm giác như bị một thứ gì thắt chặt lồng ngực, như có một quả tạ đè lên người khiến tôi khó thở, mệt mỏi rã rời. Tôi chắc chắn việc này có liên quan đến sự kiện đã kể, nhưng tôi không hiểu hết về nó để có thể đi đến bất kỳ kết luận nào. Có thể đây là một dạng bệnh lý liên quan đến tâm lý, hoặc một thứ gì đó của tôi đã nằm lại trong cơn bão cát hôm ấy, cùng với hai người đàn ông đã biến mất – một phần sự sống của tôi chẳng hạn.

Phải, tôi không bao giờ gặp lại Giaidu hay người đàn ông Nikrodan kia lần nào nữa, ít nhất là ngoài đời thật. Sau này tôi có đọc báo và thấy Giaidu xuất hiện vài ba lần, trông cậu ta ngày càng gầy gò và thiếu sức sống hơn dù vốn dĩ trong lần gặp tôi đang kể thì cậu đã gầy lắm rồi. Tin tức cuối cùng về cậu thì chúng ta đều biết, Giaidu tự sát vào năm cậu hai mươi lăm tuổi, không ai rõ là vì lý do gì.

Tôi đã thử tìm tên của bản thảo tiểu thuyết giấu trong chiếc cặp nhưng không thấy có quyển sách nào giống như vậy trên thị trường. Có thể nó đã không được xuất bản, hoặc đã bị chính phủ đoạt lấy và tiêu huỷ thành công. Có lẽ Giaidu đã quyết định từ bỏ tác phẩm ấy, cậu không muốn xuất bản hay thậm chí là không muốn giữ nó nữa. Tôi tò mò nội dung của nó chứa đựng điều gì mà lại có khả năng gây ra bao nhiêu rắc rối như vậy. Nhưng chắc là tôi sẽ không bao giờ được biết. Tôi cũng đã kiếm những tác phẩm khác của Giaidu để đọc thử, song bởi vì tôi không phải một người yêu thích sách vở văn chương cho lắm và phải nói thật là lòng những quyển Giaidu đã viết ra không thu hút được tôi tí ti nào. Chúng quá nhàm chán và lê thê, chẳng hiểu là muốn kể chuyện gì, ít nhất trong vài chục trang đầu tôi cố gắng đọc thì như vậy. Tôi đã bỏ dở toàn bộ chúng  khi thấy mình không nỗ lực được nữa.

Sau này, khi nhớ lại những chuyện đã xảy ra, nghĩ về hai người đàn ông đã biến mất, tôi mới hiểu rằng Giaidu không phải là một kẻ vô năng, đúng hơn là ngược lại, cậu ta có một năng lực rất kỳ lạ. Cậu ấy đóng vai trò như một “tác giả” có thể xoá các nhân vật ra khỏi “câu chuyện” nếu muốn. Và vào ngày hôm đó, trong cơn bão cát nuốt chửng chúng tôi và đối diện với họng súng chĩa ngay đầu, dẫu không muốn thì Giaidu cũng đã sử dụng năng lực của mình. Cậu ta buộc phải xoá sổ hai người đàn ông nọ ra khỏi “câu chuyện”. Họ thậm chí không còn nằm trong tâm trí của bất kỳ ai, bị xoá sạch nhân dạng, không còn lại một vết tích nào. Tưởng tượng giống như các nhân vật muốn buộc tác giả phá huỷ tác phẩm vì một vài lý do nào đó, nhưng tác giả đã chống trả lại bằng việc xoá đi các nhân vật ương ngạnh ấy vậy. Liệu có khi nào không chỉ có mỗi hai người đàn ông kia biến mất, mà trước đó và sau này, còn có rất nhiều người khác cũng đã biến mất mà tôi không hề biết? Liệu có khi nào thế giới này đã được lặp đi lặp lại rất nhiều lần, âm thầm gạch bỏ và vá lại rất nhiều lỗ hổng, chỉ là chúng ta không hề nhận ra mà thôi? Suy nghĩ này quá mức đáng sợ, nhưng tôi không thể loại nó ra khỏi đầu!

Không rõ vì lý do gì tôi vẫn còn lưu lại được sự tồn tại của hai kẻ đã biến mất ấy. Có thể có một cơ chế nào đó, tôi đã đóng một vai trò quan trọng nào đó trong câu chuyện được kể mà chính tôi cũng không hiểu. Tuy nhiên, việc bị “xoá sổ”, bị “biến mất” luôn khiến chúng ta bất an, về sự tồn tạiý nghĩa tồn tại của chúng ta. Và tôi nghĩ, Giaidu cũng chẳng vui vẻ gì khi đi đến quyết định gạch bỏ một vài nhân vật của cậu ra khỏi trang viết, dù đôi khi đó là việc mà một tác giả buộc phải làm.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout