Hàng xóm xôm xao bàn tán.
“Trời ơi! Hôm nay thằng Tân lại chửi bới ông Tư Lùn!”
“Thôi cũng cái nghiệp cả, miệng mồm thằng Tân độc địa chứ thiệt ra bụng dạ nó tốt lắm.”
“Tốt bụng gì cái loại con chửi cha?”
Cái này nói ra thì dài dòng. Năm xưa ông Tư Lùn cũng là một thanh niên chất phác trong làng. Ông cưới một cô vợ xinh đẹp như hoa ở làng bên, khuyết điểm duy nhất chắc là đôi mắt của bà, mắt mảnh dài, trông khá sắc bén. Vợ chồng chung sống được gần hai năm thì bà hoài thai rồi sinh ra một đứa con trai, bấy giờ ông Tư nghe lời người ta vào rừng ngậm ngải tìm trầm, hy vọng vớ được món béo bở kiếm tiền về lo cho gia đình.
Chẳng ngờ lúc trở về, vợ ông đã rời đi. Đứa nhỏ bấy giờ mới hơn một tuổi, bà gửi nhờ hàng xóm là bà Sáu Hiền, giả đò nhà mẹ đẻ có việc nên tạm vắng vài ngày. Bà Sáu Hiền tin thật, ông Tư Lùn cũng tin thật, ông bồng con, đi từ sáng đến chiều mới qua làng bên cạnh đón vợ về, nhưng mẹ vợ ông, bà ngoại con ông lại bảo vợ ông bỏ đi rồi.
Ông Tư Lùn vừa đau lòng vừa uất ức, lại phải chịu cảnh gà trống nuôi con, thành ra mang tật rượu chè. Thời gian đầu, ông xót con trai, chăm lo cho thằng bé vô cùng chu đáo. Thế nhưng lòng người dễ đổi, mẹ nó như vậy, cha nó cũng thế. Ông Tư Lùn hay bảo người trong làng, thằng Tân càng lớn càng giống mẹ, đặc biệt là đôi mắt hẹp dài như giấu dao. Ông Tư chịu không nổi, mỗi lần say xỉn lại lôi nó ra mắng chửi, có nhiều lần tức quá, ông tước cây roi mây, quất đứa nhỏ 10 tuổi đến tứa máu. Hàng xóm nhìn không nổi nữa, phải chạy đi can ngăn.
Ông Tân vứt roi xuống đất, mặc kệ đứa nhỏ thoi thóp trong lòng bà Sáu Hiền, ông bỏ đi tuốt luốt. Ông cứ đi cách tháng như thế, mỗi lần tìm được trầm đều bán ra tiền, nhưng hành trình tìm trầm quá gian khổ, có thể mất mạng bất cứ lúc nào, tiền kiếm được rướm cả mồ hôi, nước mắt lẫn máu đào. Ban đầu ông còn áy náy với hành vi của mình trong lúc say, thường xuyên dúi tiền cho bà Sáu Hiền để bà chăm lo thằng Tân, sau đó trầm càng lúc càng khó tìm, việc làm ăn gian truân hơn hẳn. Ông Tư Lùn tiếc tiền mua rượu, dần dần cảm thấy thằng Tân là gánh nặng của mình. Có lần tức giận suýt mất lí trí, ông thậm chí từng nghĩ đến việc giết quách thằng con trai này đi. Nhưng vừa nghĩ đến, ông đã tự dọa mình sợ tái mặt. Đến người bình thường thù hận cách mấy cũng không nghĩ đến giết nhau, huống hồ là con trai mình? Từ đấy ông lang bạt bên ngoài, hầu như không về nhà nữa.
Mỗi lần về nhà, ông đều say xỉn rồi mắng chửi, đánh đập con mình. Thế nên thời gian ông rời đi càng lâu, thời gian thằng Tân đỡ ăn khổ càng dài.
Thằng Tân lúc nhỏ ăn cơm muôn nhà mà trưởng thành. Năm 12 tuổi, làng có cô giáo trẻ về dạy, thằng Tân nằm trong nhóm trẻ em thất học cũng có cơ hội được cắp sách đến cái “Lớp học tình thương” nghèo xơ nghèo xác. Sớm tinh mơ Tân nó đã chạy đi phụ ông Hai Cảnh làm ruộng, trưa tới thì ra đầu làng phụ khuân củi với ông Chín, chiều chiều ra chăn trâu cho dì Bự về nhà nấu cơm, tối khuya nó chạy ra lớp học bài. Công việc của Tân không cố định, cứ có ai trong làng cần gì cũng nói trước với nó, nó tự biết xếp thời gian để phụ giúp mọi người, sẵn tiện xin nhờ một chén cơm. Duy chỉ có tối đến là nó nhất quyết phải đến lớp.
Hồi đầu ông Hai Cảnh thương nó, bảo nó khỏi phải học hành gì khổ cực, nó lớn rồi về ở rể nhà ông, nhà ông có ruộng vườn cho nó. Thằng Tân tuổi nhỏ không hiểu ở rể lắm, nhưng nó biết con gái ông Cảnh là cái Hoa chả ưa gì nó, nó cũng chả thèm, bèn cười hì hì cho qua chuyện.
Mỗi khi lên lớp học, nó luôn có cảm giác tương lai sẽ rời khỏi cái làng này, đi đến thành phố xa xôi khác mà lập nghiệp. Nó ôm cái ảo tưởng đó, khó khăn sống qua những đòn roi bất ngờ khi cha nó về, sống qua tháng ngày rày đây mai đó ăn cơm hàng xóm mà trưởng thành.
Năm đó, thằng Tân là thằng duy nhất trong làng đậu Đại Học.
Ngày biết tin nó đậu, cả làng đều mừng. Hôm ấy không biết ông Tư Lùn chết giấc ở cái xó xỉnh nào rồi, nên thằng Tân có được một ngày trọn vẹn niềm vui. Nó đi thông báo hết cho mọi nhà, vui vẻ ôm từng cô dì chú bác cưu mang nó những ngày còn nhỏ, trước lúc rời đi còn chạy tuốt ra đồng kiếm trâu về cho dì Bự. Chốn làng mạc xa xôi này đạm bạc như bùn, lại có ngày mọc lên một nhành sen. Vài người trong làng chưa từng ra phố, cứ sợ thằng Tân lên đó sống khổ sở lắm, mà chưa chắc trụ lại được lâu dài, sợ nó hào hứng rời đi lại tay trắng trở về. "Nhành sen" Tân cười cười nghe người ta cản nó rời đi, cũng không cãi lời. Người nào có ơn với nó, nó nhớ muôn đời.
Tân lên thành phố học đại học rồi, ông Tư Lùn mới về nhà. Đại học là cái gì? Có kiếm ra tiền như trầm không? Ông trề môi thầm chê. Nó khác gì con gái mẹ nó, bỏ nhà đi tới cái xó đất nào xa tít tắp!
Thằng Tân vắng nhà, tần suất ông Tư Lùn ở nhà nhiều hơn. Ông Tư Lùn lớn tuổi rồi mà vẫn thường uống rượu, chỉ là số lượng rượu ông uống ngày càng giảm đi, sức khỏe cũng ngày càng yếu.
Thằng Tân lên thành phố lập nghiệp gần mười năm thì ông Tư Lùn trở bệnh liệt giường. Lúc cả xóm chạy đưa ông Tư Lùn đi nhà thương, bà Sáu Hiền gấp gáp gọi điện kêu thằng Tân về quê ngay trong đêm. Đêm ấy ai cũng sợ ông Tư Lùn không qua khỏi, hy vọng thằng Tân kịp về gặp mặt cha nó lần cuối.
Thằng Tân thì chả hiểu kiểu gì mà lề mề vô cùng, phải mất tận 3 ngày sau mới thấy cái mặt nó ở trạm xá. Bà Sáu Hiền tức ứa nước mắt, đánh mấy cái lên vai nó, nghẹn ngào hỏi: “Bộ mày không tính gặp cha mày nữa hả?”
Thằng Tân nó thương bà Sáu Hiền, thấy bà giận quá, nó không đành chọc tức bà thêm. Chứ thật ra bà nói không sai chút nào. Cái lúc bà báo tin cho nó, ở cách mấy nghìn cây số, thằng Tân chỉ ước nó kịp về vuốt mắt ông già rồi lo ma chay cho ông. Ai ngờ ông già sống dai quá, bác sĩ thông báo đã qua cơn nguy kịch, chỉ là từ nay về sau phải nằm liệt giường cho đến cuối đời.
Bà Sáu Hiền sợ thằng Tân bất hiếu, vừa khóc vừa nói nó: “Hồi mày còn nhỏ, cha mày nuôi mày! Tiền mày ăn học là cha mày cho. Ơn sinh ơn dưỡng ổng đều có phần, mày coi như là trả nợ ổng, được không con?”
Bà Sáu Hiền có tín ngưỡng, cứ tin rằng con người phải tuân thủ khắt khe quy tắc của trời, phải nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Mà hiếu là cái đầu của nhân. Bà Sáu Hiền tin có nhân quả, có âm tào địa phủ, cứ sợ thằng Tân làm chuyện gì trái đạo lý, chết rồi sẽ phải chịu đọa đày dưới âm ti.
Thằng Tân còn khướt mới tin ba cái đó. Đối với nó, tín ngưỡng của bà Sáu Hiền không khác lắm với mấy trò dị đoan cổ hũ.
Hồi nó mới đẻ, nó có biết gì đâu? Tội ai người đó chịu, chuyện mẹ nó làm mắc gì gán lên đầu nó? Còn chưa làm ra tội ác gì đã chịu khổ hình trước rồi. Bây giờ còn bắt nó phải chăm sóc cho cái người ám ảnh tuổi thơ nó hả? Vết roi ngày xưa ông Tư Lùn dùng hết sức bình sinh quất lên người nó, đến giờ vẫn hằn sẹo chằng chịt đây! Nó đâu nhờ ai sinh ra nó? Ổng nuôi nó mà đánh nó suýt chết thì ơn nghĩa quá nhỉ?
Nhưng ngặt nỗi bà Sáu Hiền khóc dữ quá, bà khóc tới mức tăng huyết áp. Tối đó trạm xá phải tiếp thêm bệnh nhân lớn tuổi.
Bà Sáu Hiền có con cháu, lúc nằm nhà thương có người chăm lo. Chắc vì bà nhìn thằng Tân từ nhỏ đến lớn cũng ngần ấy năm rồi, nên xem nó như con đẻ của mình vậy. Thật sự hao tâm tổn sức lo cho nó.
Tối đó thằng Tân trực trong buồng bệnh bà Sáu Hiền đến khi thấy chồng con bà chạy lên, nó mới nhường chỗ cho gia đình thật sự của bà vào. Thằng Tân nhìn buồng bệnh đông người của bà Sáu Hiền, rồi nhìn qua cái buồng trống vắng cách đó không xa, cũng chả biết nó nghĩ cái gì.
Trạm xá cấm hút thuốc, thằng Tân chỉ đành day day điếu thuốc trong miệng, nó bước tới gần buồng giường của ông Tư Lùn, vén màn lên. Nó nhìn ông già gầy còm cắm đầy dây nhợ trên người, nó nhớ về gã đàn ông to khỏe rượt đánh nó hồi nhỏ. Nó nhớ có lần nó chạy không kịp, bị quất một roi ngay lưng, đau đớn ngã nhào ra đất. Ông cha nó có tha cho nó đâu? Ông được đà đánh thêm mấy roi nữa, vừa đánh vừa đỏ nghẹn ngào, như rằng ông mới là người nỗi oan thấu trời.
“Sao mày không cút theo con gái mẹ của mày luôn đi? Sao mày còn ở đây làm gì?”
“Cái thứ như mày, tới mẹ mày còn không thèm! Bắt tao phải nuôi nữa hả?”
Thằng Tân nhìn chằm chằm vào ông lão lịm trên giường bệnh, nó nghiến răng nhai muốn đứt đầu điếu thuốc trong miệng.
“Cái thứ như ông, sao không đi sớm chút đi, còn bắt tôi nuôi nữa hả?”
Lời nói thầm thì đậm mùi cay nghiệt, mang chút nghẹn ngào khó kiềm trong cổ họng, như thể nó vừa bị ép nhận một gánh nặng không muốn gánh, ấm ức vô cùng.
Sau đó là chuỗi ngày “báo hiếu” của thằng Tân.
Nó thôi việc ở công ty cũ, nhưng phải mất cả tháng mới bàn giao hết mọi chuyện rồi dọn đồ về lại nhà cũ sinh sống. Cái làng nghèo ngày xưa giờ đã lên thị trấn, tỉnh thành năm nào cũng là thành phố rồi. Thằng Tân là dân ở phố lớn về, dễ dàng xin được một công việc trong thành phố quê nhà.
Nó thuê một y tá có tuổi đến chăm sóc cha nó buổi sáng, tối về thì đến lượt nó lo.
Nó lo cho ông Tư Lùn cũng khá chu đáo, tắm rửa lau mình vệ sinh cho ông không hề qua loa. Điều duy nhất không hay ở nó là thường xuyên chửi. Bao nhiêu tủi nhục, bao nhiêu đau đớn lúc nhỏ nó phải chịu, nó lôi ra chửi một tràng với ông Tư Lùn, thao tác chăm sóc chưa từng dịu dàng. Nó ra bên ngoài hiền lành tử tế bao nhiêu, về nhà thấy ông già nằm bất động trên giường là xị mặt ra, cáu bẳn như ăn phải thuốc nổ.
Một ngày nọ, thằng Tân sửa soạn lên công ty, nó nhìn gương xem lại trang phục lần cuối, chợt ngỡ ngàng. Hôm đó là ngày hè, mặt trời lên sớm, nắng tràn từ ngoài cửa sổ vào trong nhà, chiếu lên cái bóng cao cao của thằng Tân. Nó chớp mắt nhìn chính mình trong gương, ngoại trừ đôi mắt hẹp dài giống mẹ, nhìn nó không khác gì dáng vẻ ông Tư Lùn hồi đó. Một gã đàn ông hậm hực thù đời.
Thằng Tân là một người giỏi kiềm chế, nếu không thì cái gương đã vỡ rồi.
Mấy ngày gần đây ông Tư Lùn khỏe lên, bắt đầu ú ớ rên rỉ được vài tiếng. Buổi sáng ấm ớ kêu điều dưỡng, buổi tối ông vên vỉ với thằng Tân. Nó ghét quá chửi đổng lên, bảo ông câm miệng. Sau đó cũng không nghe thấy ông phát ra âm thanh nào nữa.
Thằng Tân nhìn ông già, thấy ông đương nhìn nó bằng đôi mắt lồi đáng thương, tự dưng nó muốn đấm mình mấy cái cho tỉnh ra. Nó bị điên rồi mới thấy ông đáng thương. Nó khó chịu vò đầu, mặc kệ ông nhìn, nó đi thẳng vào phòng, đóng sầm cửa lại.
*
Một sáng nọ, trước khi thằng Tân ra ngoài đi làm, ông Tư Lùn tự dưng lại rên rỉ. Nó tưởng ông Tư Lùn bị làm sao, bèn quay lại nhìn ông. Chỉ thấy ông già run rẩy giơ cái tay gầy còm lên như đã dùng hết sức của đời này, bàn tay khô quắt nhăn nheo túm lấy đầu ngón tay nó. Thằng Tân phản xạ có điều kiện giãy ra.
Cái tay gầy của ông Tư Lùn rớt lại trên giường, mà đôi mắt ông vẫn nhìn đăm đăm vào nó. Đôi mắt ông có ánh nước, giống hệt người đàn ông to khỏe của mấy chục năm trước khi lương tâm chưa bẹo hình bẹo dạng, mỗi khi tỉnh rượu cũng sẽ ôm nó.
Ông thở khò khè, ráng bật ra một câu hoàn chỉnh: “Xin lỗi con.”
Thằng Tân là một con khỉ ranh không mẹ, có cha cũng như không, từ nhỏ tới lớn lăn lộn đầu đường xó chợ mà trưởng thành, ra đời cũng khôn lanh hơn người ta. Những câu “cảm ơn” hay “xin lỗi”, nó treo trên miệng thành quen, nghe cũng đến chán. Thế mà trong nắng sớm hôm đó, 3 chữ ông lão nói rơi vào tai nó tựa như những giọt mưa hiếm hoi mà trời ban phát cho kẻ lỡ đường trên sa mạc. Những hạt mưa bé xíu, rơi xuống nền cát lại nặng như chì, thấm sâu vào tận mạch nước ngầm. Nó đi hết gần nửa đời người, từ bỏ công việc ở thành phố lớn, về chăm sóc ông già bằng cay nghiệt, chưa từng nghĩ sẽ tích nổi cái đức gì. Không ngờ cuối cùng lại nghe thấy 3 chữ này. Chỉ 3 chữ là đủ xóa hết những chuyện ông già này đã làm mấy chục năm trước sao? Dễ vậy sao? Cứ bệnh yếu là sẽ dễ được tha thứ vậy sao?
Cái cảm giác tủi nhục lúc nhỏ bỗng dưng trỗi dậy trong nó, làm vành mắt người đàn ông gần 30 tuổi đỏ hoe. Bình thường khi tủi hờn, con người ta sẽ chạy về mách cha, mách mẹ. Thằng Tân không mẹ không cha, nó không biết phải làm gì. Thế nên mặc kệ ánh mắt ngóng trông của ông lão, nó chả thèm đoái hoài, quay lưng bỏ đi, bước chân gấp gáp như chạy trốn.
Nó dắt xe ra đến sân thì gặp dì điều dưỡng. Người điều dưỡng có tuổi này đôi lúc thấy nó chửi cha nó dữ quá, ánh mắt bà thường mang phán xét. Nhưng chỉ dừng ở ánh mắt thôi, dù sao thằng Tân cũng là người trả tiền cho bà, bà cũng chẳng tiện lắm miệng làm gì, làm tốt việc của mình là được.
Thằng Tân gặp bà, gật đầu chào hỏi rồi leo lên xe, tra chìa khóa định chạy đi luôn.
“Cậu Tân này,” Dì điều dưỡng chợt gọi nó lại.
Tân chưa kịp nổ máy, đành chống một chân xuống xe, quay sang nhìn bà, lễ phép “Dạ?” một tiếng.
Hôm nay trông dì điều dưỡng cứ là lạ làm sao. Bình thường bà hay cúi mặt xuống đất, đôi mắt như bị lực hút trái đất dính lấy, ít khi nào ngước lên nhìn người khác thẳng thắn như vậy. Hôm nay bà bỗng dưng nhìn thẳng nó, nó phát hiện thì ra bà có một đôi mắt rất đẹp, đôi mắt hiền lành đôn hậu như bà Sáu Hiền vậy.
“Hôm nay… hôm nay nhà tôi có việc, cậu ở nhà chăm ông cụ được không?” Bà đắn đo một lúc thì hỏi nó.
À ra là xin nghỉ, nghỉ thì cứ nghỉ thôi, ông cụ nhịn đói một bữa chắc không chết đâu, thằng Tân nghĩ thế. Nó nghĩ đến bà Sáu Hiền, ông Hai Cảnh, bà Bự và mấy người hàng xóm khác, cùng lắm thì nhờ họ đến trông giúp một hôm.
“Dạ cô có việc thì nghỉ đi cô, không sao đâu.” Thằng Tân nói: “Cô có chìa khóa nhà con, nếu việc nhà cô không gấp lắm thì nhờ cô vào lau người cho ổng, còn gấp thì thôi.”
“Cậu Tân!” Dì điều dưỡng chợt nắm lấy cánh tay thằng Tân.
Gì nữa đây?
“Tôi nói cậu nghe, hay là cậu ở nhà với ông cụ đi” Dì điều dưỡng dịu dàng nói: “Ở nhà với ông, chắc ông cũng vui, mà cậu cũng vui hơn.”
Thằng Tân nhíu mày, bắt đầu nghĩ đến việc thay người khác ít nhiều chuyện hơn. Nó đành tạm rút chìa khóa xe, chống chân chống, xuống xe đối diện với bà.
“Ý cô là sao?” Nó cơng cơng hỏi, vứt hết lễ phép ra chuồng gà, thể hiện rõ bản chất một thằng đầu đường xó chợ.
Thằng Tân cao hơn dì điều dưỡng nhiều, nên khi nói chuyện, dì cứ phải ngước lên đối mắt với nó. Đứng đối nhau thế này, thằng Tân trông dì nhỏ gầy hẳn.
“Tôi nói cậu ở nhà với ông cụ đi. Tôi thấy ông cụ mong hôm nay cậu ở nhà lắm. Tôi cũng xem như quen biết cậu một thời gian, tôi biết cậu là người tốt nên hôm nay tôi lắm chuyện một chút thôi. Cậu Tân à, khuyết điểm của người tử tế chính là sở hữu một trái tim yếu mềm. Dù cậu trải qua bao gai góc, thậm chí là máu xương khốc liệt, quả tim của cậu có được đắp nặn lớp lớp chai đá đi nữa thì bản chất nó vẫn yếu mềm.”
“Cậu báo tròn đạo hiếu với ông cụ không phải vì bổn phận hay nghĩa vụ gì, mà là để sau này trái tim mềm yếu của cậu nhẹ nhõm hơn, không phải day dứt, hối hận.”
Hôm đó chẳng biết ma xui quỷ khiến như nào, thằng Tân lại xin nghỉ ở nhà chăm sóc ông cụ theo lời dì điều dưỡng.
Ông vẫn nằm trên cái giường ngoài phòng khách, thằng Tân mang laptop ra ngoài ngồi làm việc, luôn cảm giác ánh mắt ông đau đáu nhìn nó từ sau lưng. Lâu lâu thằng Tân sẽ lấy nước cho ông, lo cơm nước cho ông, lau mình cho ông mà không chửi bới gì.
“Thôi thì ở đời này ai cũng bị đày đọa, ông làm khổ tôi, tôi cũng làm khổ ông. Coi như mình trả nợ cho nhau, sau này… kiếp sau không cần gặp lại nữa. Coi như tôi với ông hòa nhau nhé. Dù sao ông cũng chỉ có một thằng con này thôi, ông ráng chịu nốt ngày tháng này đi.” Thằng Tân vừa lau mình cho ông cụ vừa lẩm bẩm, nó lại thấy mắt ông rơm rớm nước.
Ngày hôm đó bình yên đến lạ.
Cho đến tối, ánh mắt nhìn nó đau đáu không còn nữa, thằng Tân đang làm việc chợt làm rơi con chuột không dây xuống bàn. Nó không buồn nhặt đồ lên, chỉ hơi ngơ ngác quay lại nhìn ông lão đã thiếp đi tự lúc nào.
Thế là hôm sau dì điều dưỡng cũng không cần tới nữa, vì ngay đêm ấy, ông cụ đi rồi.
Thằng Tân không biết ông sẽ đi nhanh đến vậy. Cái lúc nó mong ông đi quách cho xong thì ông sống dai như con gián. Còn cái lúc nó không ngờ đến, ông dứt khoát rời khỏi. Ông đi cũng lặng lẽ, không ầm ĩ như hồi trẻ.
Thằng Tân không khóc lóc gì, nó mà khóc thì giả tạo quá. Nó bình tĩnh lo ma chay cho ông cụ, lo chỗ chôn cất một cách chu đáo. Thường bảo “tang gia bối rối, nếu có gì sai sót xin thông cảm”, nhưng thằng Tân không bối rối chút nào, nên chẳng có gì phải sai sót cho đoạn đường cuối cùng tiễn người thân ruột thịt duy nhất của nó đi.
Hôm đưa tang, trên đường trở về trời lất phất mưa, có giọt nước rơi vào mắt nó cay xè.
*
Tiếng ve bên ngoài kêu réo rắt đến khó chịu. Thằng Tân giật mình tỉnh dậy, ngơ ngác nhìn ngôi nhà cũ quạnh hiu.
À, thì ra là một giấc mơ.
Thằng Tân dựa lưng lên thành giường, nghĩ về giấc mộng hoang đường vừa nãy. Bảo sao hôm đó nó nhiều kiên nhẫn thế, bảo sao dì điều dưỡng lại có đôi mắt đẹp giống bà Sáu Hiền như vậy.
Sự thật là ngày hôm đó dì điều dưỡng không nói gì cả, chỉ xin nghỉ về nhà. Thằng Tân bèn gọi điện nhờ bà Sáu Hiền qua cho ông Tư Lùn ăn giúp nó, tối đó nó phải tăng ca, lại gọi điện nhờ ông Hai Cảnh qua đỡ đần. Rồi đến khuya, nó nhận cuộc gọi của ông Hai Cảnh, nói rằng cái gã kiêu căng nghiện rượu, cái gã... cha ruột của nó qua đời rồi.
“Cậu báo tròn đạo hiếu với ông cụ không phải vì bổn phận hay nghĩa vụ gì, mà là để sau này trái tim mềm yếu của cậu nhẹ nhõm hơn, không phải day dứt, hối hận.”
Lời dì điều dưỡng nói trong mơ là điều mà phải chục năm sau thằng Tân mới thấm. Để sau những ngày tháng đằng đẵng mai này, khi nỗi thù hận nguôi ngoai theo thời gian, cảm tình ít ỏi với người đã khuất lặng lẽ ngoi lên trong trái tim mềm yếu, nó sẽ không hối hận phải chi ngày xưa kiên nhẫn, dịu dàng với ông cụ lúc cuối đời hơn một chút.
Từ ngày ông Tư Lùn mất, nó lại bỏ lên thành phố tìm việc. Bẵng đi mấy năm sau, nhận một cuộc gọi từ quê báo tình trạng bà Sáu Hiền, nó mới gấp gáp quay về nhanh nhất có thể. Tiếc là bà Sáu Hiền không đợi nó. Nó chỉ kịp về nhìn bà lần cuối trước khi đóng nắp quan tài.
Nó phụ giúp gia đình bà lo ma chay xong, nó từ chối qua đêm nhà con cháu bà mà quay lại ngôi nhà quạnh hiu của mình ngủ qua đêm.
Kết quả lại mơ một giấc mơ hoang đường nhường ấy… Tựa như món quà từ biệt của người hàng xóm trông nom nó từ nhỏ đến lớn.
Nó được xóm giềng nuôi nấng, cảm thấy trả ơn mọi người là đã làm tròn bổn phận, không thẹn với lòng. Hóa ra vẫn hoài đau đáu cái đêm tăng ca của rất lâu về trước.
Ngày hôm sau, thằng Tân quét tước lại nhà cửa, quyết định thu dọn bàn thờ và những món đồ quan trọng lên thành phố rồi gọi môi giới rao bán căn nhà đi.
Từ đó về sau, nó không về nữa.
Không có gia đình, không cần về nữa.




Bình luận
Rachel Na
Neo