“Làm sao mà anh có thể không nói với em chuyện anh là người Mỹ gốc Anh được?” Tôi trao cho Tom ánh mắt ngỡ ngàng.
“Vì em có bao giờ hỏi đâu?” Anh trả lời với một cái bĩu môi như thể đó không phải là việc của anh. “Anh là một điều tra viên mà, nhớ chứ? Nguyên tắc cơ bản là không bao giờ trả lời những thứ không được hỏi.”
Trên thực tế, Tom được sinh ra và lớn lên tại Mỹ, và là một người Mỹ. Còn bố mẹ anh là những người Anh nhập cư qua Mỹ vào những năm cuối của thập niên 80, khi họ bị cuốn vào vòng xoáy chiến lược quảng cáo của những nhà môi giới bất động sản về một thứ gọi là “Giấc mơ Mỹ” - một lý tưởng mà khái niệm của nó cho đến giờ đã bị biến đổi rất nhiều lần, và không còn thực sự giữ được đặc tính của cái gọi là “Giấc mơ Mỹ”, kể từ lần đầu nó xuất hiện vào thời kỳ Đại suy thoái năm 1931, trong cuốn Thiên hùng ca Mỹ[1] viết bởi Jame Truslow Adam[2].
Có một sự thật bất ngờ là Tom chưa bao giờ thực sự đặt chân đến nước Anh. Anh bảo với tôi rằng sở dĩ anh nói được giọng Cockney là bởi vì bố mẹ anh vẫn thường trò chuyện với nhau bằng giọng cha sinh mẹ đẻ mỗi khi bên cạnh họ không có người ngoài. Và tất nhiên rồi, giọng Cockney là một phần bản sắc văn hóa lâu đời đã có sẵn ở trong huyết mạch của anh. Nó là của anh và anh là một phần của nó.
Harriet quay lại phòng khách cùng với một cái khay bạc, phía trên cái khay là một bình trà, một bình sữa, và ba chiếc tách sứ được đặt trên những chiếc đĩa lót cũng bằng sứ nốt. “Gia đình bác thực tế không có truyền thống đón Lễ Tạ ơn, nhưng nhập gia tùy tục mà, cháu nói phải không?”
“Vâng, cháu nghĩ vậy.”
“Và cũng để chiều theo cái miệng háu ăn kia nữa.”
Tom cười. “Tại sao lại không chứ? Con là một người Mỹ kiêu hãnh mà.”
Harriet lần lượt rót trà rồi thêm sữa vào tách và trao nó cho chúng tôi. Tôi ghé môi lên chiếc tách rồi nhấp một ngụm trà, cảm thấy khá thích thú với sự kết hợp giữa trà đen và sữa; điều này giúp loại bỏ gần như hoàn toàn vị chát của trà, vừa tăng thêm độ béo, kích thích vị giác của tôi ra trò. Nói chung là nó không tệ, khá ngon nữa là đằng khác, và tôi tự tin chấm điểm nó tuyệt vời chẳng thua kém gì so với một li latte.
Tên khốn Savani chân gỗ! Một câu chửi thề vừa tức giận vừa ấm ức vọng ra từ phòng ngủ của Alfred.
Tôi trợn tròn nhìn về căn phòng cuối dãy hành lang, cảm thấy đôi phần lo ngại cho Alfred. “Chúng ta có nên xem qua tình hình của bác trai không ạ? Có vẻ như bác ấy đang khá đau đớn.”
Tom ngăn tôi lại ngay. “Bố anh ổn. Ông ấy chỉ không muốn tỏ ra thô lỗ trước mặt em mà thôi,” anh nói. “Ông đang xem dở một trận bóng đá trực tiếp của Arsenal với chiếc iPad của ông khi chúng ta đến đây.”
“À, trận bóng đá.” Harriet nói. “Hãy bỏ qua cho ông ấy, Nick. Alfred là một người hâm mộ trung thành của Arsenal. Ông ấy chưa bao giờ bỏ lỡ bất kỳ một trận đấu nào của họ. Khi họ thắng một giải đấu hồi năm ngoái… à, ừm… Là giải đấu gì ấy nhỉ, Tom, con biết không?”
“Là cúp FA[3] ạ.”
“Ừ. Phải rồi, là cúp FA. Bác thi thoảng có theo dõi họ thi đấu cùng với Alfred, nhưng chẳng bao giờ nhớ nổi tên của mấy giải đấu đó, vì chúng cứ thế nối tiếp nhau diễn ra suốt. Cháu biết không, Alfred đã khóc tu tu như một đứa trẻ và thao thức suốt đêm vì chức vô địch của đội bóng đấy.”
Tôi cười, vì nhận ra điểm này ở Alfred gợi nhớ đến người bố đáng mến của tôi. Ông cũng đã từng khóc y hệt như một đứa trẻ hồi New England Patriots thắng trận Super Bowl[4] 51 và chàng cầu thủ yêu thích của ông là Tom Brady đạt danh hiệu MVP[5]. Hóa ra những người đàn ông đều dễ dàng bị thể thao làm cho mềm lòng như thế cả. “Bác ấy quả là một người hâm mộ lớn.”
“Bậc nhất luôn,” Harriet khẳng định, thế rồi tiếng kêu tít tít của đồng hồ bấm giờ thúc giục bác kết thúc nốt phần còn lại có trong tách trà. “Món bỏ lò của bác!” Bác nhanh nhảu đứng ngay dậy. “Hai đứa đã có một chuyến hành trình dài rồi, giờ thì bác nên để cho hai đứa được nghỉ ngơi. Chúng ta sẽ thống nhất bữa tối được bắt đầu vào lúc sáu giờ chứ hả, hai đứa thấy sao?”
“Sáu giờ là đẹp đấy mẹ,” Tom nói.
Rồi Harriet quay sang tôi, và cái miệng của tôi tự động trả lời: “Vâng, sáu giờ là đẹp, bác ạ.”
Câu trả lời của chúng tôi đủ làm Harriet hài lòng. Trước khi đến chỗ cái món bỏ lò đang réo gọi trong bếp, bác như thể chợt nhớ ra một điều gì đó quan trọng và lại nhìn về phía chúng tôi. “À, phải rồi. Ở trên phòng chỉ có một chiếc giường thôi, và nó khá nhỏ. Nhưng chúng ta còn một cái giường gấp sơ cua ở trên gác mái. Hai đứa không phiền lên lấy nó hộ bác chứ?”
“Vâng, cháu không–”
Khi tôi còn chưa kịp kết thúc câu nói, Tom đã vòng tay qua người và ôm lấy hông tôi một cách đầy tình cảm. “Không cần đâu mẹ,” anh bảo. “Đây không phải là lần đầu tiên bọn con ngủ chung một giường.”
Tôi há hốc, sốc ra mặt, cảm thấy một bầu không khí nóng nực ập xuống chúng tôi gần như lập tức. Mồ hô vã ra như tắm từ đằng lưng tôi và cả dưới hai cánh tay. Thật tình, tôi chưa bao giờ ngờ rằng Tom lại có thể táo tợn tới mức vậy. Thế rồi giữa lúc căng thẳng nhất, tôi bất chợt cảm nhận được một sự nhẹ nhõm rõ rệt truyền vào lồng ngực mình thông qua cái vuốt ve đầy tình cảm của Harriet ở trên má. “Mẹ hiểu rồi,” bác nói với Tom, rồi dịu dàng chuyển ánh mắt sang để nhìn vào mắt tôi, và tôi cảm thấy trái tim mình như bay bổng trên chín tầng mây trong đôi mắt của bác. Nụ cười hiền hòa của bác quả thực rất giống Donna Sheridan, khắc vào tâm trí tôi một ấn tượng vô cùng sâu đậm, và làm cho giai điệu của bài hát Mamma Mia vô thức vang lên trong đầu tôi như một băng đĩa nhạc. Ôi, làm sao tôi có thể cưỡng lại tình yêu của bác.[6] Tôi bỗng cảm thấy bản thân may mắn một cách kỳ lạ, còn bàn tay của bác Harriet thì thơm phức mùi hương của bột bánh nướng. Và như tôi đã nói với bạn ở ngay trên kia, tôi luôn hạnh phúc mỗi khi xem lại bộ phim đó.
Tôi và Tom cùng nhau đi lên tầng. Phòng ngủ tầng hai về cơ bản đã bị bỏ trống hàng năm trời nhưng hoàn toàn không có mùi khó chịu của nấm mốc hay dấu vết bụi bặm. Nó thực tế rất ngăn nắp và sạch sẽ, phảng phất một mùi bạc hà the mát tỏa ra từ bụi hương thảo trồng trong chiếc chậu đất nhỏ bên bậc thềm cửa sổ. Hành lý của chúng tôi lúc này đang đứng cạnh chiếc giường cỡ nữ hoàng nằm ở giữa gian phòng, và tôi nhận ra ngay sự chỉnh chu của Harriet đến từ chiếc ga trải giường đã được bác vuốt phẳng phiu đến tận những nếp gấp tại các góc, cùng các gối đã được bác làm phồng trở lại. Tôi còn nhận ra nhận ra sự vắng mặt của một bức tranh hoặc là khung ảnh ngay trên vị trí đầu giường, vì lớp sơn tường bạc màu khiến nó trông nhạt hơn so với phần còn lại của căn phòng ở nơi thứ đó từng được treo.
“Thứ gì đã từng được treo ở đó vậy anh?”
Tom nhìn qua chỗ tôi chỉ. “Ảnh gia đình anh,” anh đáp. “Nó đã được mẹ anh chuyển xuống phòng ngủ tầng một, vì bà bảo đó là thứ cuối cùng mà bà muốn được nhìn thấy trước khi đi ngủ.”
“Halle quả là một người trọng tình cảm. Em rất mến bác.”
“Có lẽ em chưa nhận ra, nhưng mẹ cũng rất mến em đấy.”
“Anh nghiêm túc đấy à?” Tôi không tin hẳn, nhưng giọng vẫn chứa thật nhiều hy vọng.
Tom gật đầu. “Bà sẽ chẳng bao giờ mời em dùng trà với sữa, nếu bà không có cảm tình với em.”
Tôi nuốt chửng nước bọt. Nghĩ lại thì đúng may cho tôi vì đã nói “có” với Harriet khi được bác gợi ý liệu tôi có muốn dùng trà với sữa.
“Có thể nói bước đầu của chúng ta đã thành công tốt đẹp,” Tom bảo với tôi, rồi anh thả mình xuống chiếc giường cùng toàn bộ cơ thể anh giãn ra, và tôi thấy nước chảy xuống từ hai bên khóe mắt sau cái ngáp hết cỡ của anh. “Nhân tiện nhắc đến ảnh gia đình, có em ở đây hóa ra lại là một chuyện rất tiện đấy. Bố anh luôn muốn chụp một tấm ảnh mới, bởi ông bảo tấm ảnh cũ không có mặt của con Hạt Đậu.”
“Anh đang mời em tham gia vào ảnh chụp gia đình anh hay nhờ em làm thợ nháy cho bốn người thế?”
Anh cười tươi rói. “Em đã nghĩ đến chuyện góp mặt trong ảnh gia đình anh rồi à?”
“À thì, em không di chuyển hàng nghìn cây số đến đây mà chẳng vì điều gì,” tôi nói, nửa đùa nửa thật. “Mà này, ban nãy anh có ý thức được là anh đã công khai chuyện của chúng ta với mẹ anh rồi không thế?”
“Nếu đúng là thế thì càng tốt chứ sao?”
Mặt tôi nhăn lại. “Tốt ở điểm nào?”
“Ở điểm dựa trên phản ứng của mẹ, chẳng phải bà đã ngầm chấp nhận chúng ta rồi còn gì.”
Tôi nhớ lại cái vuốt ve ban nãy của Harriet, lòng gợi lại một sự lâng lâng khó tả. “Em đoán vậy.”
Tôi bước về phía chiếc giường và ngồi xuống chỗ mép giường. Tom dịch người lại, rồi sau đó luồn chân phải của anh qua khe hở giữa vị trí cánh tay và cơ thể tôi, đặt nó nằm gọn gàng trên đùi tôi. “Cởi giày giúp anh đi,” anh đề nghị.
Hương thơm dễ chịu của lớp xi đen bóng loáng mới được chải lại trên chiếc giày tây bay vào mũi tôi. Tôi nhìn về phía Tom và được anh trao lại một cái đá lông nheo đầy vẻ mời mọc. Tôi mỉm cười, song chọn cách phớt lờ tiếng gọi mời mọc đó của anh, nhắc nhở anh nhớ lại bản giao kèo của chúng tôi trước khi đến đây, là sẽ không “động chạm” gì nhau trong chuyến đi lần này. Anh làm ra vẻ hết sức tiếc nuối và hối hận về lời hứa đó, còn tôi thì tập trung luồn bàn tay trái xuống phía dưới ống quần và ôm lấy cổ chân anh, tay còn lại rút nút thắt của dây giày và từ từ tháo nó ra khỏi bàn chân anh. Kế đến tôi giúp anh cởi bỏ tất; chiếc tất trắng mà anh mang sáng nay giờ đã hơi ướt phía đằng hai mắt cá và có mùi mồ hôi, tuy không nồng nhưng cũng chẳng dễ chịu gì. Tôi ném chiếc tất về phía anh. “Sản phẩm của anh đấy. Đón lấy nó này.”
Tom đưa chiếc tất lên mũi ngửi như thể đang tận hưởng một đặc ân hiếm có và nhe răng ra cười. Rõ là anh đang cố tình trêu ngươi tôi đây mà. Sau đó anh vo tròn chiếc tất ẩm lại thành một cục và ném nó sang bên, rồi đặt nốt chân còn lại lên đùi tôi. Tôi lặp lại hành động tháo giày ban nãy cho anh một lần nữa, lại ném chiếc tất ẩm về phía anh, có thể cảm nhận được cái mỏi rã rời trên những đầu ngón chân của anh sau chuyến đi đường kéo dài tám tiếng đồng hồ. Tôi bắt đầu mát-xa cho đôi chân của anh, nhẹ nhàng xoa bóp gót chân và mắt cá của anh bằng phần thịt của cả hai bàn tay. Anh khẽ rên rỉ và nhăn mặt lại khi tôi ấn đầu ngón tay vào phần thịt xung quanh miếng đệm lớn của ngón chân cái. Hiểu điều đó có nghĩa là gì, tôi liền giảm lực nhấn của ngón tay, rồi chuyển sang ôm lấy bàn chân của anh và xoay tròn. Hơi thở của Tom nhanh chóng thay đổi chỉ trong ít phút sau đó, cùng chiếc bụng của anh căng lên rồi xẹp xuống đằng sau lớp vải mịn của chiếc sơ-mi một cách đều đặn.
Tôi tiếp tục mát-xa cho Tom như vậy thêm mười lăm phút nữa, rồi tìm cách giải phóng cho cái lưng ngày càng mỏi dã dời của tôi. Tôi hít một hơi thật chậm, nhẹ nhàng nhấc hai chân anh lên và lùi lại. Nhưng khi tôi gần thoát ra, anh bất chợt chồm người lên giữa chừng và ôm chầm lấy tôi, kéo tôi trở lại chiếc giường để nằm xuống cạnh anh.
“Chuyện gì nữa?” Tôi hỏi.
Anh mơ màng nhìn tôi qua đôi mắt ngái ngủ. “Nói chuyện cùng anh đi.”
“Nói chuyện gì bây giờ?”
“Không biết luôn.” Anh nhún vai và trề môi dưới ra. Rồi lại cười tủm tỉm cười. “Anh chỉ biết anh thích được nói chuyện cùng em, ngay cả khi anh chẳng có gì để nói.”
Tôi cười, hôn nhẹ lên trán anh. “Ngủ đi, ông tướng.”
[1] Tên gốc gốc: The Epic of America.
[2] James Truslow Adams (1878 – 1949): Một nhà văn kiêm nhà sử học người Mỹ.
[3] Tên đầy đủ “The Football Association Challenge Cup” - giải đấu bóng đá thể thức loại trực tiếp hàng năm dành cho nam ở Anh.
[4] Trận tranh chức vô địch thường niên của Liên đoàn bóng bầu dục Quốc Gia.
[5] Most Valuable Player: Cầu thủ hay nhất trận đấu.
[6] Nguyên văn: My, my, how can I resist you? Một câu hát trong bài hát Mamma Mia của ban nhạc ABBA.
Bình luận
Chưa có bình luận