Chương 5: Trai đi bốn bể thong dong, Gái thì cột chặt, bên nong bên nồi.



Làng Đông Tụ vốn như một bức tranh sơn mài đã cũ, quét lên bao lớp lễ giáo khắc nghiệt, nứt nẻ ra toàn những lằn ranh trọng nam khinh nữ. Từ trong nhà ra ngoài ngõ, từ mái đình rêu phong đến chợ quê ồn ã, đâu đâu cũng nghe câu “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. (1)"

Đàn bà cái làng này, có sướng được bao nhiêu? 

Từ lúc mới mở mắt đã cắm mặt vào việc, đến khi nhắm mắt cũng chẳng rảnh được đầu óc.

Gà còn chưa buồn gáy, trời còn mờ đất, trong khi đàn ông vẫn quấn chăn, chân vắt chữ ngũ, hơi thở phì phò thì đàn bà đã lọ mọ trở dậy. Lưng gầy còng xuống, bàn tay sù sì vén vạt áo lau mồ hôi lấm tấm trên trán. Tiếng quạt lửa phành phạch, tiếng rổ rá lanh canh, tiếng gọi con rời rạc trong màn sương sớm. Một tay thổi bếp, một tay vo gạo, lưng còn ngoái lại quát lũ trẻ. Đến khi bát cơm đã dọn ra, canh đã chan, cá đã gỡ xương, hắn mới uể oải ngáp dài, với tay gãi bụng mà chờ vợ bưng nước rửa mặt.

Cơm dọn lên, đàn ông chễm chệ giữa mâm, mặt bóng nhẫy, áo mở phanh, ngực trần lún phún lông. Tay bưng bát, đũa chọc thẳng vào nồi, gắp trước miếng to nhất. Đàn bà đứng bên, lưng khom, mắt cụp, miếng nào vào bụng cũng phải lựa mà ăn kẻo ăn mất miếng ngon là lại ăn đập. Cá có đầu có đuôi, thịt có nạc có mỡ, cái gì ngon nhất ngon nhì hắn gắp hết, ngon ba cho con, mà phải là con trai, phần còn lại trơ xương, vợ và con gái lặng lẽ nhặt nhạnh mà húp nước.  Đũa lỡ động vào chén dưa muối trước khi hắn ăn, lát xong kiểu gì cũng rát mặt, có khi lại bị dúi đầu xuống bát cơm mà mắng:

 "Con đàn bà mắt trước mắt sau, cơm cũng chẳng để cho chồng hả?"

Ăn xong, đàn ông xoa bụng, đứng lên, vung tay quệt mép, vứt bát chỏng chơ mà đi ra sân, chân đá hất cái nón của vợ sang bên. Đàn bà cúi người lượm lên, chẳng dám nói gì, lại lật đật chạy ra giếng rửa bát. Mùa hè còn đỡ, chứ mùa đông nước lạnh buốt, tay ngâm lâu rộp đỏ, nứt nẻ, chạm vào chén cũng thấy rát. Được hôm nào cơm ngon canh ngọt, chồng vui miệng thì yên, chứ bữa nào cơm sống, cá tanh, hắn quăng luôn cái bát, mắng: 

"Rửa cho sạch, hầu kĩ vào! Không tao trả về nơi sản xuất bây giờ. Láo nháo, vớ vẩn tao tát chết." Câu ấy nghe mãi, đến mức đàn bà trong làng nhắm mắt cũng lẩm bẩm được. 

Mà hầu hạ đàn ông chưa xong, lại đến con cái. Lũ trẻ là bầy gà con, đứa khóc đứa đòi, đứa sụt sịt vì lạnh, đứa giật vạt áo mẹ mà kêu đói. Đàn bà lại tất tả tay bế tay bồng, tay quạt than hong cháo, miệng giục giã câu mềm mỏng với chồng. Chồng có đi đâu thì đàn bà vẫn quẩn quanh với bếp, với nhà, với cả đống vải rách phải vá lại. 

Rồi đến lúc đi chợ. Đàn ông thong dong đi uống rượu, đi chơi cờ, đi nghe hát, mặc cho đàn bà gánh quang gánh nặng trĩu ra chợ buôn bán, mặc cả, cúi lưng bốc hàng, đứng từ sáng đến trưa chỉ mong lời được vài xu mà vá áo, mà mua ít cá khô về nấu canh. Trời nắng, lưng áo ướt đẫm, trời lạnh, tay chân run lập cập. Đàn bà ráng cười, ráng nói, ráng nài nỉ khách để bán được thêm chút đỉnh. Đến lúc về, tiền bạc phải đưa hết cho chồng, không thì chỉ có bị quát, bị đánh, bị đay nghiến đến rạc cả người.

Có hôm, một mụ trong làng mới để lại một xu lẻ trong ống tay áo, bị chồng bắt được. Ông chồng trợn mắt, quát lớn:

 "Đàn bà con gái mà dám giấu tiền chồng? Mày muốn bỏ trốn à? Hay mày có thằng nào? Thứ hư thân mất nết."

Chưa dứt câu, hắn đã xông tới, túm tóc giật ngược, lôi xềnh xệch vào trong nhà. Tiếng roi vun vút, tiếng chửi rủa, tiếng khóc nấc nghẹn, rồi im bặt. Mãi lúc sau, mụ bước ra, hai mắt đỏ hoe, môi sưng tều, bước chân lảo đảo, mà vẫn phải cắn răng cười với khách.

Tối đến, chồng đi đâu thì đi, vợ vẫn phải nấu sẵn cơm, bày sẵn chậu nước, chờ đến lúc hắn về mà hầu hạ. Ăn xong, rửa xong cũng chẳng được nghỉ mà phải nhóm bếp, sẵn sàng cho bữa mai. Con khóc, rảnh thì dỗ, không thì mặc. Còn chồng, đặt trên đầu, phải vâng, phải dạ.
Nếu hắn vui, thì phận mình vui một chút. Nếu hắn tức, thì phận mình bị mắng, bị đánh. Tức chuyện ngoài đường, về nhà trút lên vợ. Tức chuyện bạc thua, về nhà trút lên vợ. Thích cũng đánh. Không thích cũng đánh. 

Chẳng ai oán, cũng chẳng ai kêu. Bởi thân đàn bà, khổ đã là đạo, nhọc đã là phận. Làm sao dám ngang hàng với đàn ông?

Vậy đấy! Đàn bà Đông Tụ, cúi đầu cả đời, không dám kêu, không dám khóc, không dám chạy. Chỉ có con Thanh Dở, nó dám. Nó chẳng phải quỳ rửa bát. Chẳng phải cúi đầu bưng cơm. Chẳng có chồng để mà đấm mà đá. Chẳng ai dám đánh nó, chẳng ai bắt nó hầu hạ. Nó nghênh ngang bước đi, đầu ngẩng cao, chân đá tung đất, sống cái đời tự do như gió. Nghĩ đến đấy, mấy bà, mấy cô lại cười cười, mà mắt cứ rầu rầu.

Gió lành lạnh trườn qua mái tranh, lùa vào từng kẽ áo, len lỏi vào làn da thô ráp của những thân người còm cõi vừa rời khỏi chợ. Trời mới sập tối, mặt trăng còn ẩn sau mấy cụm mây xám xịt, chỉ hắt xuống một màu sáng mờ nhạt, chông chênh khéo vừa phận đời đàn bà Đông Tụ.

Nhài Thanh ngồi xổm bên bậc đá nứt, lưng dựa vào vách đất ẩm. Cô kéo vạt áo chùi hai bàn chân trần lấm lem bùn, miệng lẩm nhẩm câu gì đó nghe líu ríu. Đôi mắt láo liên, lướt qua mấy dáng người lầm lũi đi về. Dáng nhỏ nhưng bước chân nặng. Vai gầy nhưng gồng gánh, mang cả quãng đời chồng con cơ cực.  Mấy mụ đàn bà, đứa nào cũng cúi mặt, hai tay ghì chặt cái rổ, cái thúng, đựng toàn mấy con cá ươn, mớ rau dập. Áo vải sờn bạc, tóc vấn vội bằng dải khăn xám màu khói bếp. 

Nhài Thanh lặng người một lúc lâu. Cái vẻ nghịch dại hàng ngày bỗng chốc tan biến. Cô đứng lên, phủi bụi bám trên ống quần, rồi lận cái bánh tiêu còn nóng vào vạt áo. Đầu ngẩng lên, nhưng đôi mắt vẫn lom lom nhìn về phía mấy bóng lưng xiêu vẹo. Mùi tanh, mùi hăng, mùi hôi của mồ hôi hòa lẫn vào nhau, quện vào mái tóc đã khô cứng vì sương bụi. Thanh Dở trầm ngâm:

"Cả đời lo cho chồng cho con, vậy mà tối về cũng chỉ có mỗi bát cơm nguội húp với nước rau. Sáng bán mặt cho đất, tối về bán lưng cho chồng, đến hơi thở cũng chẳng còn là của mình."

"Cha mạ ơi! Lấy chồng làm gì để nó đánh, nó đập, nó nạt, nó khinh, nó chửi, nó chê, nó ghê, nó ghét..?"

Gió thổi mấy cọng tóc lòa xòa trên trán, Thanh Dở đưa tay gãi gãi, mắt quắc lên nhìn vầng trăng méo mó phía xa. Cô cười nhạt, nhưng cái cười chẳng có chút gì là vui.

Thanh Dở lầm lì vung tay, gắt gỏng quát:  "Đời đã hèn còn bắt cúi đầu. Cha tiên nhân nó! Quân trời đánh! Sét xuống đi, đánh chết đám đực rựa, lũ vai u thịt bắp mà chẳng làm nên cơm cháo đó đi."

"Hừ! Hừ! Phường đàn ông vô tích sự!"

Dở cười hắt ra một tiếng. Chân cô lại đá vào mấy hòn sỏi ven đường, viên to viên nhỏ lăn lông lốc, va vào nhau lộc cộc. Tóc mai lòa xòa trên trán, cô đưa tay vén vén, ngửa cổ nhìn trời. Đôi mắt vẫn còn cái nét lém lỉnh, nhưng sâu trong đó là sự thấu đời đến kỳ lạ,  cái khôn của kẻ đã quen nhìn cảnh đời mà chẳng cần ai giảng giải.  Trăng lửng lơ, treo chênh vênh một cái bóng ám lên đời làng. Nhài Thanh chép miệng:

"Kiếp đàn bà hả? Khổ thì khổ cho đến nơi, chứ cứ lửng lơ nửa sống nửa chết vầy, thì thà xuống lỗ sớm cho rảnh nợ!"

Nhài Thanh thở dài.

Cô vung vẩy tay chân, lững thững mà đi. Dở chớp mắt, thoắt cái, ánh nhìn khôn ngoan chợt vụt tắt, thay vào đó là vẻ ngây ngô, ngồ ngộ quen thuộc. Mí mắt trễ xuống một chút, khóe miệng kéo ra, toe toét cái điệu cười hề hề. Xâu tiền bọc kỹ, nhét chặt vào chỗ rách, lồng vào tận lớp áo trong cùng, vừa đi vừa vỗ vỗ lên ngực. Đứa nào mà thò tay vào, đừng mong lấy được gì ngoài một vết cứa bỏng rát, cái gai đời này, dở sắc lắm!

Nhài Thanh chẳng nhà, cũng chẳng cần nhà. Ngủ đâu chả là ngủ. Có hôm rúc bụi chuối, đêm nghe gió rít qua lá mà lạnh tê tái. Có bữa vắt vẻo trên cây, hai chân buông thõng, ngửa mặt nhìn trời mà ru mình vào giấc. Đêm nào rét quá, cô cứ chui tọt vào bồ rơm nhà nào đấy, quấn chặt rạ mà ngủ cho ấm. Chỉ cần đừng có thằng đàn ông nào thấy mà đá cho một phát thì đâu cũng là giường.

Chứ ai hơi đâu mà hầu hạ đàn ông?

Cô bước huênh hoang, chân đạp đất, miệng huýt sáo, cái điệu ngang ngang không có theo nhịp, dở chọc ghẹo cả vầng trăng trên cao cơ mà. Mắt cô liếc về phía mấy mái nhà đang lập lòe ánh đèn dầu. Giờ này chắc mấy mụ trong làng đang ngồi xổm bên nồi cơm, tay quạt quạt cái quạt mo, khói than bám lên mặt mà vẫn phải cười hì hì với chồng. Chắc cũng có mấy người đang lom khom rửa bát, nước lạnh ngấm vào kẽ tay nứt nẻ, lưng còng xuống sắp rạp vào đất.

Còn cô? Cô chỉ cần lo cái bụng no, lo tìm chỗ ngủ. Chẳng ai sai bảo, chẳng ai đè đầu cưỡi cổ. Cô thích thế. Sướng phải là thế! Cô chẳng cần ai biết. Khôn quá thì sống khó. Dở một chút, ngố một chút, thiên hạ dễ tha, đời cũng dễ thở hơn.

Tối nay, Nhài Thanh không rúc bụi chuối, cũng chẳng chui rơm. Cô nhắm đến cái vườn trống cuối làng, rộng thênh thang, cây cối mọc um tùm, cỏ dại cao quá đầu, lối mòn phủ đầy lá khô nghe lạo xạo mỗi bước chân. Ở giữa có một cái giếng hoang, thành giếng rêu bám xỉn màu, nước trong xanh. Cái vườn này chẳng ai nhận là chủ, vậy thì cô nhận. Đất trời rộng thế, ai ôm hết được mà tranh?

Vừa đến nơi, việc đầu tiên cô làm là ném hai cái bánh tiêu qua tường, quẳng luôn quả chuối nướng theo. Đồ ăn vào trước, người vào sau. Bụng cô có thể bầm dập, chân tay có thể trầy trụa, nhưng cái bao tử thì phải no, phải chắc.

Nhài Thanh đứng khom người, xoay xoay cổ, vặn mình một cái răng rắc, rồi dậm chân hai cái xuống đất. Hai bàn chân cọ qua cọ lại, cái dáng khom khom sẵn sàng vọt lên bất cứ lúc nào. Đoạn, cô chạy lấy đà, nhún người bật lên. Hai bàn tay móc chặt mép tường, mười ngón bấu chặt người biến thành vuốt chim cào vào đất. Chân quẫy quẫy mấy cái, rồi cái đầu cúi xuống, cả thân mình luồn qua một cách gọn ghẽ, nhẹ như con lươn chui vào kẽ hẹp. Cô vắt chân trèo lên, thân người thoăn thoắt, co một cái đã lộn tùng phèo qua bên kia.

Thanh Dở ngồi thụp xuống, phủi phủi tay, hề hề cười. Trèo tường kiểu này vui hơn đi cửa gấp vạn lần. Bởi vì đằng kia có cái cổng rào, đẩy nhẹ là vào, chẳng tốn một giọt mồ hôi...Nhưng mà cô ứ thích! Đi đường vòng vèo, ngay ngắn thì còn gì thú vị? Nhảy tường vừa nhanh, vừa sướng, lại còn khoái chí. Cái kiểu lách qua kẽ hở, vắt vẻ, luồn lách, mới là lối của dở cô.

Nhài Thanh thả người rơi bịch xuống đống rơm, rơm khô xô thành một vòng bụi vàng li ti, bốc lên lẩn vào bóng tối. Chân này quặp lên chân kia, tay vươn cao quá đầu, kéo một hơi dài, trút ra  mớ nặng nề trong bụng. Miệng cô ngậm một cọng rơm, vừa nhai vừa nhả, cọng rơm mềm oặt theo hơi thở. Trông Nhài Thanh lúc này, khoan khoái chẳng khác nào con mèo nằm ườn giữa sân gạch buổi trưa hè, lim dim mắt tận hưởng cái nắng rọi lên bộ lông vàng hoe.

Cô ngó lên trời. Trăng sáng, sao thưa, mây dày, đêm không trong, nhưng gió thì mát. Gió lùa từ bãi hoang, lướt trên mấy bụi cây thấp tè, xuyên qua dãy rào tre lưa thưa mà thổi vào mặt cô, phảng phất mùi rơm, mùi cỏ, mùi ẩm mục của đất.

Thanh đưa tay xoa bụng. No, no căng rốn! Một cái bánh tiêu, một quả chuối nướng, mấy miếng kẹo vừng bòn từ gánh hàng bỏ quên. Cô thế này thì đêm nay ngủ khoẻ.

Nghĩ tới đây, lòng cô hả hê, khoan khoái lắm. Cô thở phào, đầu nghiêng sang một bên, mắt lim dim. Mí mắt nặng trĩu dần, nặng tới mức cô chẳng còn muốn mở nữa. Thế là, Nhài Thanh tự mình ru vào giấc ngủ. Gió thổi, rơm lùa qua mái tóc bết bụi. Tiếng côn trùng rả rích, tiếng ếch nhái vẳng từ ruộng xa.

Bỗng một tiếng muỗi vo ve ngay bên tai. Nhài Thanh lim dim, cô nhíu mày, một tay giơ lên quờ quạng, phẩy phẩy  xua đi cái thứ nhỏ bé đang lởn vởn bên mặt. 

“Dám đốt tao à? Xéo, xéo đi…” Giọng cô lười biếng, ngái ngủ, lẫn cả chút khó chịu. Nhưng cô chẳng buồn mở mắt, cũng chẳng buồn đập mạnh. Chỉ phẩy tay vài cái rồi lại thả xuống, trở mình, vùi mặt sâu vào rơm. Lại một hơi thở hắt ra.

Đêm vẫn dài. Gió vẫn xào xạc. Nhài Thanh dần giãn cơ mặt, hơi thở của cô gái tuổi đôi mươi cứ đều đều..

Trời đen xì xì, tiếng lá cọ vào nhau xào xạc. Đâu đó, một hồi chim lợn rúc lên. Âm thanh khàn đục, heo héo, kéo dài lê thê. Cả không gian bỗng chốc trầm mặc, chỉ còn tiếng dế gáy rời rạc, tiếng con chó tru lên một hồi, đột ngột tắt lịm.

Đã vào canh hai (2).

Nhài Thanh trở mình, vùi sâu hơn vào đống rơm, miệng chẹp chẹp nhai cọng rơm khô, khoan khoái tận hưởng cái ấm áp len lỏi trong từng sợi rạ. Bụng cô no, gió mát trăng thanh, đời không còn gì sung sướng hơn. 

Một giấc ngủ ngon. 

Nhưng....

Có gì đó, rất khẽ.

Thoạt đầu, như một tiếng xào xạc của lá, một âm thanh mong manh bị cuốn đi. Nhài Thanh miên man chẳng để tâm, nghĩ chắc chuột lục lọi đâu đó. Nhưng rồi, một tiếng nấc nhỏ cất lên. Nó không giống tiếng gió. Cũng không giống tiếng chuột.

Tai Nhài Thanh nói thật là thính hơn chó. Cô chớp mắt vì bị thanh âm nhỏ đó đánh giấc. Thanh nằm im. Lắng nghe.

Là tiếng khóc. Rất nhỏ thôi. Đứt quãng. Lẫn vào đêm tối..


-Hết chương 5-


Chú thích:

(1): "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" có nghĩa là: "Chỉ có một con trai cũng coi là có, còn có mười con gái cũng vẫn là không." Câu nói thể hiện tư tưởng trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến. Nó phản ánh quan niệm xưa cho rằng con trai mới có giá trị vì nối dõi tông đường, còn con gái dù nhiều cũng không được coi trọng. Đây là một định kiến lỗi thời, thể hiện sự bất công đối với phụ nữ.

(2) Canh hai: Canh hai trong cách tính thời gian của người xưa tương đương với khoảng 21 giờ đến 23 giờ (9 giờ tối đến 11 giờ đêm) theo giờ hiện đại.


152

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

  • avatar
    Rùa

    Thời này cũng trọng nam khinh nữ đâu kém đâu, nhiều nhà vẫn cổ hủ vãi ra, bác t cũng có tư tưởng đó này :))))))))

  • avatar
    Rùa

    Suy nghĩ đến chiện sự nghiệp, cày cuốc làm kiếm tiền chứ chưa nghĩ đến chuyện lấy chồng :))) không mấy mình yêu một ông nào đó 80 tuổi rồi ổng chết mình lấy tài sản được không ta

  • avatar
    Rùa

    Chưa ra chương mới à 

  • avatar
    Bánh Bao

    Lối hành văn hay quá

Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout