Mùa nước nổi


Nhưng chị cứ nhìn, nhìn như thể đằng sau lớp hàng rào muỗi mòng, phủ đầy bóng tối và mơ màng sương đêm kia, có một khoảng trống đủ rộng để thảy hết "khoảng trống" của mình vô đó. Nếu không, chẳng lẽ mình cứ đi hoài? Nhưng ngồi nghĩ có ích gì. Làm sao khoảng trống trong đầu mình đủ rộng để ôm hết những nỗi buồn trôi lơ lửng trong tim. 


Giữa dòng kinh cuồn cuộn đục ngầu, lơ thơ mọc lên một đám điên điển trổ bông vàng óng. Thằng Hận lái vỏ lãi [1] chạy là là mé kinh rồi tắt máy, chờ nhóm ký sự quay phim, chụp hình. Ngồi không, nó rướn cổ nhìn chị Thương gần mình nhất, thấy chị không chụp mà lui cui viết. Viết được mấy hàng, chị đổ quạu, vùng vằng gạch nùi nùi lên giấy. Chị thở dài nhẹ hều như sợi gió lướt qua, vậy mà lọt hết vô tai năm người còn lại. Ngồi kế chị là anh thợ chụp hình cầm máy cơ, cũng bị lây tiếng thở dài rầu rĩ. Anh buông máy an ủi chị, mình ở đây tới nửa tháng, từ từ mà viết.

Chị không trả lời, chỉ tay ra tít đằng xa, kêu Hận:

– Coi bộ bên bển nhiều bông đó, Hận chở tụi tui qua đi.

Hận nín thinh, tiếng máy nổ xình xịch trở thành tiếng dạ ran văng vẳng một khúc kinh. Vỏ lãi chạy băng băng, bỏ lại đằng sau hai hàng nước rẽ đôi, xô đám lục bình dập dềnh chao sóng. Ngày chóc, đám điên điển chị Thương chỉ hiện ra, mọc dày và rực rỡ gấp mấy lần cụm cây hồi nãy. Không, phải kêu là một rừng điên điển vàng. Những đóa hoa con con, cánh mịn màng đung đưa trong gió sớm. Qua ống kính, giọt sương trong vắt óng ánh, no nê sắc bình minh trượt trên cánh hoa, rơi xuống vạt rừng chen chúc màu xanh non, vàng thẫm. Cả đoàn trầm trồ tặc lưỡi. Tiếng “chậc chậc” lớn nhất là của anh thợ chụp. Cái máy treo trước ngực anh hình như nghe được tiếng tim chủ đập rộn rã – cũng như hồi mới biết thương biết nhớ, thấy thương lây nên chụp một hơi hết sức gần hai chục tấm. Chụp xong, anh vỗ nhẹ lên máy, cười khà:

– Rồi! Bỏ “Động Hoa Vàng” vô đây đem về!

Nhóm ký sự nhao nhao, Thương cũng nghiêng người nhìn tấm hình trong máy, ngỡ ngàng kêu, chụp gì mà chụp đẹp quá chừng, còn hợp chủ đề mới ghê chớ. 

Hận ngồi như tượng, ngó trời ngó đất, ngó từng con sóng dập dờn thức dậy trước cả bình minh. Nó quay tới quay lui, nói vơi vơi như nói với con kinh, từ đây tới khúc trên còn đám bông này là tươi nhất. Bông như vầy, không bẻ ăn thì uổng quá. Ý là “Mấy anh tranh thủ chụp, chiều nay ra chắc khúc củi cũng không còn”. Rồi nó bâng quơ nghĩ, nói làm chi, nhiều khi mùa tới mình cũng không có bông ăn nữa.

Vỏ lãi chạy một vòng kinh, ra ngoài sông cái để nhóm ký sự quay phim chợ nổi. Rẻo đất heo hút, nhà cửa thưa thớt, chợ trên sông cũng nhỏ xíu. Không của ngon vật lạ, chợ họp sớm rồi tan mau. Lúc đoàn tới nơi mặt trời đã cao quá ngọn cây bẹo, treo lủng lẳng trên đó chỉ còn mấy củ khoai luộc, nửa nải chuối xiêm đen. Nhìn kỹ hơn thì thấy đằng xa kia, trên cây bẹo của một chiếc xuồng con treo bọc ni lông trong đựng điên điển còn tươi rói. Trên bờ cách đó không xa, một chị tay nách đứa con, tay cầm nón vẫy vẫy chiếc xuồng, quyết liệt kêu điên điển, điên điển ơi, điên điển bán sao. Người trên xuồng hạ cây bẹo xuống, dồn thêm một mớ điên điển còn dư vào bọc. Vỏ lãi chạy lại gần, gió thông thống đưa lời khách thương hồ vào trong máy quay: “Tính để trưa nay chấm cá linh kho nước dừa, mà chấm ngả nào hết, thôi chia cưng nhiều nhiều đó.”

Vỏ lãi lao vùn vụt như lướt trên mặt nước. Nhìn từ xa, khách và chủ chỉ còn là hai chấm nhỏ như hạt bụi, chênh chao ngược chiều nắng loang loáng. Ống kính dừng lại trên những đoá hoa sóng trắng xóa, dập dềnh trôi ngược về sau. Anh thợ chụp tắt máy quay, tua đi tua lại cảnh vừa rồi, lòng lâng lâng dâng thành nụ cười mãn nguyện. Thấy còn tiêng tiếc, anh dặn đoàn ngày mai phải dậy lúc hai giờ, ra chợ ba giờ để kịp quay từ lúc sông vắng. Thằng Hận nhìn anh trề môi, nói thầm trong bụng, xứ này lúc nào mà hổng vắng, đi khuya lơ khuya lắc đặng ma bắt hay gì. Trời, coi kìa, cái thằng cha tài lanh ớn, không thèm hỏi tài công là tui một tiếng. Ngày mai tui ngủ tới sáng, để coi ai chở mấy ông bà đi.

Mười giờ hơn, đoàn cập bến sau chuyến đi “khảo sát sơ sơ”. Sáu, bảy người vừa chui tọt vô hàng ba nhà Thương, trời ùn ùn kéo mây đen rồi đổ mưa sầm sập. Ba má Thương giữ Hận ở lại ăn cơm trưa trong lúc chờ nồi chè thưng mới nấu nguội bớt. Nó cười cười:

– Nhà con kế bên, bớt mưa qua ăn chực mấy hồi. Giờ con về nhà coi chừng ngoại, con bỏ ngoại ở nhà mình ên sáng giờ.

Nói rồi nó mượn cái nón lá cũ giắt ngoài hàng rào kẽm B40, ụp lên đầu, nheo mắt ngoái nhìn vô nhà một lần. Mưa tầm tã quật rát mặt, cay mắt, nhà lại tối thui chưa mở điện. Trong ánh vàng ánh đỏ le lói hắt ra từ bóng đèn cà na trên bàn thờ, Hận thấy mờ mờ dáng một người đứng nép bên cửa. Người đó như cái bóng, như dây leo mọc bám trên vách tường, không nhúc nhích, không nói năng, chỉ ngóng theo vành nón nhấp nhô trên hàng rào bông trang, khuất dần sau bụi cây cỏ dại. 

Bóng nê ông trên đầu nhấp nháy rồi bừng sáng, rọi thẳng xuống Thương đứng như trời trồng bên cửa cái. Chị ngó ba má trân trân, hoảng hồn như bị bắt quả tang làm chuyện gì xấu. Má chị không dám nhìn vào mắt con gái mình lâu, đành giả đò “ngắm” cái vuông sân chìm trong màn mưa miên man. Giọng má lên cao, sao cho át tiếng mưa nhưng vẫn nghe thật bình thường, như không buồn không thương gì hết:

– Chút nữa bớt mưa xách chè qua bển cho nó đi. Dòm thấy đứt ruột. 

Chị gật đầu, lủi thủi ra nhà sau dọn cơm. Mà, sao lồng ngực còn xốn xang quá. Tay chân ươn ướt, trong bụng cứ buồn buồn. Chắc là dư âm từ cơn chết điếng vừa rồi. Hoặc là tại trời, sáng bắt chị phơi nắng, trưa bắt chị phơi mưa nên muốn trúng gió. Ừ, chị vừa đi vừa nói bâng quơ, mưa gì mà dai, lạnh gần chết.

Ngày đầu tiên ở lại, năm người thành phố sắp xếp đồ đạc hết một buổi chiều, không còn thời gian đi loanh quanh nữa. Biết kế hoạch bị hoãn, lúc đem cà mên chè qua nhà Hận, Thương ở lại một hồi lâu. Gần một tiếng trôi qua, chị không nói được với Hận mấy câu, vì nó cứ lui cui ngoài vườn, chị thì ngồi trong nhà bóp chân cho bà ngoại Hận. Đôi chân ốm như cây sậy, phủ một lớp da nhão nhoẹt như bột nếp chảy lấm tấm đồi mồi và mờ mờ sẹo này đã ngược xuôi khắp rẻo đất mười tám năm trời để nuôi Hận khôn lớn. Đôi chân này cũng ngâm trong bùn ao, lội dọc bãi lài để cưu mang Thương suốt năm năm ba má Thương bỏ xứ vì nợ nần. Bây giờ đôi chân phi thường đó tong teo, nhỏ xíu, nằm gọn lỏn trên đùi Thương, và cũng hiếm khi đi đâu xa khỏi rặng vườn sau nhà. 

Ngoại ưa nói chuyện với Thương. Có khi nhớ, có khi quên, có khi lẫn chuyện này qua chuyện khác. Chị đi xa năm, sáu năm, thứ duy nhất ngoại còn nhớ như in là giọng chị êm như ru và đôi bàn tay mềm mại, ấm hĩnh, thường trăn trở nắn bóp chân cho mình hồi chị còn ở quê. Ngoại không quen phiền hà người ta, nhưng chị là ngoại lệ. Từ hồi ba má chị quay về, cả ngoại lẫn chị đều hay kiếm cái cớ nào đó để chị ở lại nhà ngoại lâu thiệt lâu. Nhưng mấy năm nay chị đi xa, tự nhiên cả hai thấy cái cớ nhức chân của ngoại bắt đầu khập khiễng. Khập khiễng vì đôi mắt chị không còn lấp lánh nhìn ra sau vườn có tiếng loạt xoạt như hồi chị mới hai mươi, hai mốt. Khập khiễng vì đôi tay chị vẫn mềm nhưng ướp hơi lạnh đất khách quê người. Khập khiễng vì giọng chị vẫn nhẹ, vẫn trong vắt như năm nào, nhưng không còn nhiều nốt trầm bổng. Nó đều đều, buồn buồn, buồn đến nhiễu thành giọt rơi tõm xuống lòng người ta lúc trả lời câu hỏi “Năm nay dắt ai về chưa?”

Hận không vô nhà, chị cũng không chờ, xắn ống quần ra vườn kiếm nó. Nó không ở trong vườn mà ngồi ngoài sân xi măng cặp vách nhà sau, trên gốc dừa chặt thành cái đôn. Bàn tay nó dính đầy nhớt và dầu máy, cầm cờ lê buông thõng một bên. Xung quanh bày la liệt bù loong con tán, cái can mười lít chẻ đôi đựng nước đen đen váng dầu, bộ áo xe màu trắng ngà vừa khờn vừa đầy sình bùn, chiếc Dream tháo hết, trơ ra bộ khung… Mùi dầu nhớt hăng nồng át mùi cây cỏ ướt và hơi đất sau mưa, luẩn quẩn một khúc sân, nó lại thấy như không, dựa vào vách tường chợp mắt. Thương thở dài:

– Thà ngồi ngoài này ngủ gục, chớ không vô hỏi tui một tiếng nghe chơi.

Hận hé mắt, ưỡn người dậy vươn vai, quăng cờ lê xuống nền xi măng kêu leng keng. Nó chép miệng:

– Tại mát trời. Người ta mệt, nhắm mắt dựa tường chứ gục đâu mà gục.

Thằng quỷ sứ, chị nói hờn trong bụng. Chị biết hết, biết từ câu nói dối của nó tới lý do vì sao nó ngồi thừ ngoài này để tránh mặt chị. Chị không giận, không hoang mang, chỉ thấy giống những chiều đi dài dài xóm kinh lùa mấy con gà ham chơi về chuồng. Tụi nó không về, chị kêu một hồi thấm mệt nên không kêu nữa. Chị để cái đầu trống trơn và trái tim trĩu nặng lang thang với đám gà. Đi mệt, chị về. Những buổi tối sau cuộc lang thang dài, chị thường ngồi bó gối trước thềm nhà Hận, nhìn xa xăm. Xa lắm cũng chỉ tới đám dừa nước hay gốc bần xập xòe tán lá bên bờ kinh. Nhưng chị cứ nhìn, nhìn như thể đằng sau lớp hàng rào muỗi mòng, phủ đầy bóng tối và mơ màng sương đêm kia, có một khoảng trống đủ rộng để thảy hết "khoảng trống" của mình vô đó. Nếu không, chẳng lẽ mình cứ đi hoài? Nhưng ngồi nghĩ có ích gì. Làm sao khoảng trống trong đầu mình đủ rộng để ôm hết những nỗi buồn trôi lơ lửng trong tim. 

Càng lớn, khoảng trống càng nở ra. Nỗi buồn ăn không khí cũng trương phình, choán hết tâm trí Thương. Chị đi ngày một xa, ngày một miệt mài. Chị dặn lòng, chừng nào khoảng trống mà ba má, đứa em gái và nhịp đời hiu hắt bên xóm kinh bỏ lại trong chị vơi bớt, chừng đó chị mới thôi đi. Nhưng, chắc chị không dừng trên một thềm nhà nào ở quê.

Tảng lờ chuyện cũ, chị biểu Hận, giọng còn bùi ngùi:

– Chè thưng để ở trỏng, lát vô ăn. Nấu nhừ như tương rồi, nhớ rủ ngoại một tiếng, chớ tui rủ ngoại không chịu nghe.

Nói rồi chị ra về, mới trở được gót chân đi đã nghe Hận ngắc ngứ sau lưng:

– Ờ… ờ… Bận này về ghé mua kẹp tóc chưa?

Nghe Hận hỏi, rõ ràng người Thương hơi sượng. 

– Đi công chuyện, sáng nay về tới là nhào vô quay với đoàn, rảnh đâu mà mua. – Rồi chị ngạc nhiên. – Hận còn nhớ, hay ghê hén.

– Tại… Tui tính lên trên xã mua đồ, thấy chị đứng đó mới sực nhớ chuyện mua kẹp. Chị đi không, sẵn tui cho quá giang.

Thương ngần ngừ đồng ý.

Xe máy mới mở áo ra, ráp lại không kịp nên phải đi vỏ lãi. Đỡ Thương xuống vỏ lãi rồi, tự nhiên nhớ ra chuyện gì, Hận không nói không rằng hộc tốc chạy về nhà. Nó quay lại với chiếc nón lá cũ trên tay, nói nè, trả chị. Ba chữ xẵng lè, nhưng giọng nó cứ lí nhí như kẹt hơi trong cổ họng, nghe như đang giận lẫy. Chiếc nón úp nhẹ lên tóc Thương, mùi lá cật mật khô cháy nắng thoang thoảng, vành nón nghiêng nghiêng đã sổ chỉ, tưa lá phủ bóng râm lên đôi mắt ngỡ ngàng và đôi má hây hây của chị. 

Chợ xã cách xóm kinh hơn mười cây số. Nếu đi vỏ lãi phải đánh một vòng lớn, cập bến rồi lại cuốc bộ, mất hơn mười lăm phút đồng hồ. Lên bờ, Thương tót ngay vô nhà lồng chợ, còn Hận đi mua đồ loanh quanh. Nửa tiếng sau gặp lại nhau ở bến, Hận đang ngồi chồm hổm, vừa hút thuốc vừa nói chuyện râm ran với bạn hàng trên ghe đang đậu. Từ chỗ Thương đứng chỉ thấy được tấm lưng của Hận. Nắng gió ngoài sông đổ lồng vào chiếc áo sơ mi trắng sọc xám giặt tới mỏng te nó mặc, làm ẩn hiện bắp thịt rắn chắc màu đồng. Đứng trước con nước xiết mênh mông, ngó bờ vai dày rộng như vầy, người ta chợt thấy vững bụng lẫn âu lo. Với những người sống bám thiên nhiên như Hận, sự rắn rỏi, vững chãi đến bình yên kia không phải trời cho mà nhờ cược nửa mạng mình mới có. 

Ý nghĩ này quệt thêm một nét rầu lên gương mặt buồn xo của Thương. Khi thấy tay Hận trống trơn, túi Hận lép kẹp, tức là Hận vừa đi một chuyến không công như mình, tự nhiên nỗi buồn đọng lại thành nước mắt. Chị ngửa đầu, quệt tay từ đuôi mắt xuống màng tang, một mình nói một mình nghe, sao chảy nước mắt sống vậy cà. 

Từ năm bé Thương mười tuổi tiễn em mình về thế giới bên kia và tiễn ba má đi trốn nợ ngoài cù lao, chị biết nước mắt chảy phải có nguyên do. Chị nhớ lại lần lần. Hồi nãy vô nhà lồng chợ, hỏi hai, ba tiệm bán kẹp tóc mà mình không thấy cái muốn mua đâu. Mình muốn mua loại kẹp tóc cho con nít nhỏ bằng đầu ngón tay, kẹp vừa đủ sợi tóc mai, thường là hình bươm bướm hay bông hoa năm cánh, có đủ thứ màu xanh đỏ tím vàng. Người ta nói kẹp kiểu cũ như vậy hết hàng lâu rồi, bày ra cho mình hơn chục cái kẹp tóc kiểu dáng Hàn Quốc đang là mốt, nhưng mình nhất quyết lắc đầu. Xế chiều trong nhà lồng chợ lợp mái tôn nóng chảy mỡ, cô bán kẹp tóc gặp khách kì cục nên đổ quạu, dằn cây kẹp tua rua mạ vàng xuống tủ kính, lầu bầu:

– Chèn đéc ơi, ba cái đồ xưa đó kiếm đâu ra mà kiếm! Cô hỏi hết cái chợ này, tui đố cô kiếm có. Bây giờ đồ con nít với đồ người lớn y chang nhau. Cô có ra lề đường, ra chỗ người ta hay bán đồ chơi mà kiếm thì cũng vậy thôi.

Cô bán kẹp tóc nóng tính nhưng không nói gạt mình. Mình đi thêm hai tiệm khác, câu trả lời nhận được chỉ có một.

Rõ ràng năm ngoái và nhiều năm trước nữa, cũng ở nhà lồng chợ này, đến những tiệm tạp hoá trẻ em này và gặp những cô, những dì này, Thương mua được mười cái kẹp tóc nhỏ cho em gái. Có ngờ đâu, mới một năm mà chợ quê đổi thay "nghiêng trời lệch đất". Cảnh còn, người còn, đâu có gì mất, cớ sao Thương thấy như mình đã sống hết một kiếp, lạc cái này, mất cái kia, sắp sửa về với cát bụi bằng hai bàn tay trống không?

Bốn giờ chiều, qua kẽ mây, trời rải từng chùm nắng vàng ruộm xuống sông vắng. Khách thương hồ lũ lượt neo ghe vào bến, không mấy ai còn lênh đênh ngoài khơi. Bến sông lại rộn rịp bước chân người như sớm mai. Trong nườm nượp tiếng bước chân kia, không hiểu sao Hận nghe được tiếng bước chân Thương. Nó quay đầu khi chị còn cách nó vài thước, đôi mắt nâu vừa như xoáy vào nó, vừa như nhiễm một nỗi niềm hư ảo, xa xăm. Nó quăng điếu thuốc, chà chà dưới chân, phủi áo quần rồi qua chỗ chị, ngó tới ngó lui:

– Kẹp đâu? Người ta đóng cửa hả?

– Đồ cũ quá, nghỉ bán rồi.

Hận nín thinh, đút tay vô túi quần, chà mũi dép xuống nền xi măng kêu sột soạt. Nó thường làm như vầy mỗi khi bối rối. Ngày xưa khi hay tin em gái Thương không qua khỏi cơn sốt, nó cũng làm y vậy, rồi đặt tay nhẹ lên tóc chị, để chị nương theo bàn tay kia gục đầu vào áo nó, khóc cho đã đời. Chiều nay, tay nó chỉ dừng trên vai chị, phủi phủi nhẹ hều. Trước khi cái phủi thứ ba đáp lên vai áo mình, chị lẳng lặng lách người tránh đi. 

Gió sông hôn tóc mai chị, cuốn ngược về sau, phất phơ qua tay Hận. Nó rụt tay, giả đò tươi tỉnh đi băng băng về bến, giả đò ráo hoảnh giọng nói, ráo hoảnh cái cười, ráo hoảnh buồng tim đang chênh chao giữa chiều nước nổi:

– Vậy thôi, về. 

__________

Chú thích:

[1] Vỏ lãi: còn có tên khác là vỏ tắc ráng hay vỏ vọt, là một loại thuyền máy, xuồng hoặc ghe nhỏ, dài và có hình thoi, thường được làm bằng gỗ, có gắn thêm máy. Vỏ lãi là phương tiện di chuyển chủ yếu và phổ biến ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là vào mùa nước nổi. Hiện nay vỏ lãi được làm chủ yếu từ nhựa composite để giảm trọng lượng và di chuyển nhanh hơn trên mặt nước. 

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout