Dựa trên giấc mơ có thật của tác giả.
Ít bữa nay có dịp ghé ngang Biên Hòa, bụng dạ tôi bỗng ngồ ngộ lạ lạ. Tưởng đâu xứ này vẫn còn y như dạo trước, té ra mọi thứ đổi thay dữ dằn. Từ Lái Thiêu xuôi về chừng mười lăm dặm, nếu đi đường lộ cái ngã Búng qua Tân Vạn thì lẹ hơn, nhưng kẹt nỗi xe đông chen chúc. Hôm đó tôi nổi hứng, bèn rẽ vô đường lên Trị An ngược về, tính kiếm chút gió máy với ngó nghía cảnh vật cho đã con mắt.
Đường vắng hoe, hai bên là bưng biền, chòm cây, có khi bắt gặp những bụi tre rậm rạp hoặc một hai nóc nhà xưa còn lợp ngói móc. Đến khúc Bửu Long, còn chưa tới chợ Biên Hòa, tôi ghé xe lại vì bên tay trái hiện ra một cái hồ rộng thênh thang, nước trong biếc mà sâu hút như muốn nuốt cả trời xanh. Gió thổi qua mặt nước nghe lạnh xương sống.
Người địa phương kêu chỗ đó là Hồ Long Ẩn, nghĩa là rồng giấu mình. Nghe cái tên thôi đã gợi chuyện lạ rồi, thiệt không uổng công tôi ghé lại. Đi qua mấy lần nhưng giờ hỏi ra mới hay, vùng này ngày xưa là bãi khai thác đá, hồi thời Pháp thuộc người ta đem nhân công tới đục đá xây đường, làm cầu. Đục riết rồi cũng kiệt, bỏ lại một cái hố lớn. Mưa gió thời gian đổ xuống, nước tràn đầy, hóa thành hồ. Nhưng dân gian lại chẳng nghĩ đơn giản như vậy.
Người già trong vùng kể rằng hồi xa xưa, lúc đất Đồng Nai còn hoang vu, rừng rậm đầy cọp beo, có một con rồng từ phương Bắc bay về đây, kiếm chốn lánh nạn. Nó bay đến giữa trời thì gặp ngay cơn giông bão dữ, sét đánh rần rần, rồi bị thương. Nó đáp xuống một hõm núi rồi lặn mất tiêu. Sáng ra người ta thấy hiện ra cái vũng nước lớn, nước cứ dâng đầy, không ai biết từ đâu mà ra. Cũng từ đó, mỗi lần trời chuyển mưa, mặt hồ sôi bọt, từng vệt sóng xoáy tròn như có vật gì quẫy đạp dưới đáy.
Có lần mấy đứa nhỏ thả trâu chơi gần đó, một đứa té xuống hồ. Mò hoài không ra xác. Dân trong xóm lập bàn cúng, mời thầy pháp, thầy bói tới coi, ai cũng bảo dưới đáy hồ có long mạch, động vô lành ít dữ nhiều. Từ đó, người ta kiêng không dám chọc phá, không dám tắm lội, chỉ dám đứng xa mà ngó. Thi thoảng vẫn có người lén thả câu, mà cũng kỳ, câu trúng cá rô cá lóc thì ít, mà mắc lưỡi toàn rễ cây đỏ au như huyết.
Một cụ ông tự xưng Bảy Cảnh - người giữ miếu Thiên Hậu trên gò đất gần đó - kể tôi nghe một chuyện rùng mình:
"Tôi sống đây bảy chục năm, hồi nhỏ có lần đêm trăng, tui thấy dưới hồ có bóng vật gì lượn qua, dài cả trượng, vảy ánh bạc loáng như ánh trăng rớt. Rồi biến mất tiêu. Tui thề có trời đất chứng giám, không hề nói ngoa!"
Bởi vậy nên dân gian mới gọi đó là Long Ẩn, rồng giấu mình, nghe vừa linh thiêng, vừa rờn rợn. Người đời sau có đứa lỡ dại, định xây nhà lấn ra hồ, cũng đều gặp chuyện lạ, có khi nhà cháy rụi, có khi người trong nhà sanh chuyện điên khùng. Mấy ông già bà cả đều răn dạy:
“Chỗ thiêng thì để đó, có đất ở thì cứ ra chỗ khác, đừng có nghịch với long mạch.”
Thế là từ đó, con nít trong xóm không dám mon men tới gần hồ Long Ẩn, người lớn thì có gan lớn cũng chỉ dám đứng xa xa mà nhìn cho biết mặt. Đất hoang vu hồi nào, sau được người ta dựng lên khu du lịch sinh thái. Tuy chốn đó còn phảng phất vẻ hoang sơ, cỏ mọc lút gối, đá núi nằm trơ gan cùng tuế nguyệt, nhưng được cái phong cảnh hữu tình, rừng núi trập trùng, sương chiều bảng lảng, nên du khách tứ xứ cũng tò mò ghé thăm cho biết cái gọi là "phong sơn hữu vị" nó ra làm sao.
Tôi còn nhớ rõ, độ chừng hai mùa mưa trước, có dịp ghé ngang qua đây lần nữa. Ban đầu cũng tính chỉ dừng chân chốc lát để hóng mát, uống ly nước mía, ngó khói lam chiều cuộn trên triền núi mà lòng người tự dưng lắng lại. Ai dè đâu, chuyến đi đó lại rủi may chen lộn, tôi chẳng những ngắm được cảnh đẹp mà còn đụng phải một chuyện quái gở khó quên trong đời.
Từ ngày có lời đồn về long mạch, người lớn trẻ con trong vùng đều kiêng cữ, chẳng ai dám bén mảng tới gần hồ Long Ẩn nữa. Đất hoang chưa lâu thì người ta bèn dựng khu du lịch sinh thái, tuy còn hoang sơ nhưng cảnh sắc nên thơ, khách thập phương cũng tò mò ghé chơi, phần vì muốn biết phong cảnh hữu tình, phần vì nghe danh truyền thuyết rùng rợn quanh hồ.
Tôi cũng có dịp lên đây một chuyến, ban đầu chỉ tính ngắm cảnh cho khuây, ai dè lại gặp chuyện lạ. Hôm đó, giữa buổi chiều bảng lảng, tôi bất ngờ quen được một cô gái lạ mặt. Cô đẹp như tranh, giọng nói nhẹ như gió thoảng. Hai đứa thân nhau mau lạ kỳ, chuyện trò hợp ý như tri kỷ. Nhưng cuộc nhân duyên kỳ lạ ấy ngắn ngủi quá. Một hôm, cô biến mất không lời từ biệt, không ai biết cô là ai, ở đâu đến, và đi đâu về. Mà kỳ lạ hơn hết, từ bữa đó, tôi trở lại hồ bao nhiêu lần cũng không còn thấy cô lần nào nữa.
Chuyện diễn ra thế này...
Hôm đó, trời vừa sụp bóng. Cỏ cây hai bên đường chen nhau mà run, nghe như cũng se sắt một cái buồn mênh mang, thấm đẫm mà thi vị. Tôi bước chậm giữa chiều, gió lùa nhẹ quanh vai, mắt thì lơ ngơ nhìn mấy khóm hoa dại mọc rải rác dưới chân núi đá xa xa, hoặc dõi theo bóng mây bay nghiêng nghiêng in xuống mặt hồ Long Ẩn tĩnh lặng. Cảnh sắc lặng thinh, mà lòng người thì rộn ràng.
Lúc đó, tôi bỗng thấy mình cũng phong lưu làm sao. Nghỉ phép được đôi hôm, lại chọn lên chốn núi hồ vắng vẻ này để ngắm cảnh, giải sầu.
Đang loay hoay lom khom gần ven hồ, kiếm một chỗ có bóng mát để ngồi nghỉ chân, tôi bỗng thấy thấp thoáng đằng xa một bóng người con gái đang bước lại. Ban đầu chỉ tưởng ai đi ngang, nhưng càng lúc càng gần, dáng người ấy mỗi lúc một rõ. Cô mặc áo dài trắng, tà áo bay bay trong gió chiều, tóc để tóa, xõa dài ngang vai, tay cầm chiếc nón lá chao nghiêng, bước đi chậm rãi như thể không vội vàng chuyện gì.
Tôi đứng sững một hồi, mắt không dám rời khỏi hình bóng ấy. Cô trông trẻ lắm, chắc chỉ vừa đôi mươi, cái tuổi đẹp nhất đời người con gái. Mặt mày đoan trang, dáng dấp thướt tha, làn da trắng như bông bưởi đầu mùa. Tôi thầm đoán chắc cô là nữ sinh ở trường nào đó trong nội ô Biên Hòa, nghỉ học ghé lên đây hóng gió hay chụp vài tấm hình cho vui.
Nhưng mà lạ thay, nhìn cô vừa quen vừa lạ. Cái cảm giác như thể đã gặp ở đâu rồi, trong giấc mơ hay ở một khoảng ký ức mơ hồ nào đó mà mình không tài nào nhớ nổi. Mà kỳ nữa là, nơi này vốn vắng hoe, người qua lại ít lắm, nhất là con gái trẻ con mà dám một mình đi sâu vô cái chốn hồ núi này, thì thiệt cũng lạ.
Tôi băn khoăn không biết cô đi đâu, hay có chuyện gì không. Nhưng chưa kịp mở miệng hỏi thì cô đã dừng lại, đứng cách tôi chừng mươi bước, ngước mặt nhìn tôi rồi mỉm cười, cái cười nhẹ như cánh hoa rơi xuống mặt nước vừa e thẹn, vừa như đã quen thân từ thuở nào.
Ôi chao, càng nghĩ kỹ mới thấy ở đời thiệt có lắm chuyện lạ kỳ mà người ta không thể nào liệu trước. Có bữa trời nắng chang chang, tưởng đâu cả ngày chẳng có gì đặc biệt, vậy mà chỉ cần một cơn gió lạ thổi qua cũng đủ khiến lòng người bồi hồi. Cũng như buổi chiều hôm đó, tôi chỉ tính đi dạo loanh quanh, hít chút hơi rừng cho khoẻ, ai ngờ đâu lại vô tình gặp gỡ một bóng người con gái, mà không phải ai khác một mỹ nhân như từ trong mộng bước ra.
Tôi vẫn nhớ rõ khung cảnh lúc đó, trời thì nghiêng bóng, mây bay lơ đãng như tơ, hồ nước lặng như tờ giấy bóng kính, rừng cây hai bên rì rào chuyện trò với gió. Giữa cái không gian hữu tình như vầy, bỗng xuất hiện một người con gái áo dài trắng, tay cầm nón lá, mặt mày đoan trang, ánh mắt lại ẩn chứa một điều chi đó khó gọi tên. Nó khiến lòng tôi, vốn đã yên ổn bao lâu, tự dưng xao động.
Tôi tự hỏi: có phải đây là sự sắp xếp nào đó của trời đất, của nhân duyên tiền định? Hay chỉ là một sự vô tình ngẫu nhiên mà quá đỗi tuyệt vời? Nếu là vô tình thì sao lại đúng lúc tôi dừng chân? Đúng khung cảnh lặng như tờ, đúng bóng chiều nghiêng nghiêng đổ dài trên mặt hồ, đúng cái lúc lòng tôi cần một điều gì đó mơ màng để thắp lại?
Thiệt tình, chuyện như vậy mà nói ra sợ người ta tưởng tôi phóng đại. Nhưng trong lòng tôi, khoảnh khắc ấy như một lát cắt lạ thường đẹp, buồn, mà hấp dẫn như một chương mở đầu trong một cuốn ký sự nào đó, chưa kịp viết tên. Cô ấy hiện ra nhẹ như khói sương, nhưng ánh mắt, nụ cười, dáng người ấy lại hằn in vào trí nhớ tôi như thể đã từng gặp nhau ở đâu đó rồi, từ kiếp trước chăng?
Tôi đứng lặng nhìn cô gái, lòng rối như tơ vò. Mọi giác quan như tê đi trong một khoảnh khắc khó nói thành lời. Cái cảnh vật nên thơ này, cộng với bóng người thiếu nữ áo trắng chậm rãi tiến lại, khiến tôi cảm thấy như mình đang lạc vô một khúc phim xưa, hay một đoạn mộng ngắn ngủi nào đó chưa từng mơ thấy.
Gió chiều lúc này thổi nhè nhẹ, mang theo hương gì thơm dịu như bông lài, bông bưởi. Cô gái mỗi lúc một gần, bước chân nhẹ nhàng như không hề chạm đất, tà áo dài khẽ lay theo gió, chiếc nón lá lật nghiêng che một bên má, chỉ lộ ra đôi mắt to mà hiền, mi cong như vẽ.
Tôi chưa kịp nghĩ sẽ phải nói câu chi, thì cô đã cất tiếng. Giọng nói của cô nghe nhẹ hều mà ấm áp, như nước hồ mùa thu:
- Anh cũng hay đến đây dạo lắm hả?"
Tôi giật mình. Trời đất ơi, cái giọng nói ấy, sao mà quen thuộc lạ thường. Nó không chỉ là giọng một cô gái lạ bắt chuyện, mà như đánh thức một điều gì đó cũ kỹ, thân quen từ sâu trong trí nhớ tôi. Tôi bối rối lắm, nhưng cũng ráng cười, đáp lại:
- Dạ, cũng mới lần này thôi hà. Lên chơi vài bữa cho khuây. Không ngờ gặp cô nơi đây, bộ cô cũng hay ra bờ hồ này dạo?
Cô cười nhẹ, nụ cười như cánh hoa mỏng rớt xuống mặt nước, khiến lòng tôi chùng xuống một cách lạ lùng. Cô nghiêng đầu, ánh mắt đong đưa, nhìn ra xa:
- Hồi nhỏ em hay ra đây lắm, lâu rồi mới có người hỏi tới.
Tôi như nuốt không kịp lời. Câu nói đó sao nghe như từ một cõi nào xa lắc vọng về. Hồi nhỏ ư? Nhưng cô còn trẻ lắm mà. Rồi tôi tự cười thầm mình, chắc cô chỉ nói cho vui vậy thôi.
Cả hai lặng im một chút. Gió vẫn thổi, mặt hồ vẫn lặng, chỉ có tiếng chim kêu lác đác trên tàng cây, và nhịp tim tôi hình như đang lỗi một nhịp. Tôi nhìn cô, cô nhìn mặt hồ, rồi lại khẽ đưa mắt nhìn tôi như dò xét điều gì.
- Tên anh là gì? - cô hỏi.
Tôi hơi sững người, rồi trả lời:
- Tôi tên Hòa... còn cô?
Cô không đáp liền, chỉ cười một cái rất nhẹ, rồi đưa tay khẽ gõ nhẹ lên vành nón:
- Tên em để khi khác nói nghen, giờ chưa tới lúc.
Trời đất ơi, câu nói gì lạ lùng mà cũng ngọt ngào dữ vậy. Tôi chỉ biết đứng cười trừ, trong lòng như có ai đó vừa lật sang một trang sách chưa từng đọc tới. Có gì đó mơ hồ mà lại thôi thúc, như một cuộc hò hẹn định sẵn đâu đó giữa người và điều chi không rõ.
Mà lạ thiệt, cái cách cô nhìn tôi, cái cách cô nói chuyện, như thể đã từng biết tôi từ lâu. Như thể tôi chỉ là người vừa trở lại, còn cô thì vẫn ở đây, đợi chờ ai đó quay về.
Âu cũng tên tuổi con gái, tôi nhớ hồi nhỏ từng nghe mấy cụ trong xóm răn dạy, rằng con gái con đứa là phải giữ cái tên, nhất là đứa nào đang tuổi dậy thì. Người xưa kỵ hỏi tên, kỵ hỏi tuổi, bảo rằng lỡ nói ra rồi mệnh hồng nhan dễ bị trắc trở, duyên phận long đong. Lúc đó nghe cũng chỉ cười cười, tưởng mấy chuyện ấy là hủ tục, nhưng càng lớn, càng đi nhiều, lại thấy người đời tin những chuyện linh ứng lắm. Mà kỳ thiệt, mấy cô gái đẹp, có duyên, thường hay giấu tên như giữ một thứ bùa ẩn, hở ra là chuyện buồn nó theo liền.
Tôi thì không tin tuyệt đối vào mấy điều kiêng kỵ đó, nhưng lòng cũng thấy... khó nói. Một phần ngại hỏi, một phần cũng vì cái cách cô ấy cười mà né tránh khiến tôi lại càng cảm thấy chuyện này không nên ép.
Tôi nghĩ thầm:
"Thôi thì tên tuổi, đã là của riêng cô, mình đâu có quyền chen vào. Mà người chịu mở lời nói chuyện với mình giữa chốn hoang vu này cũng đã là điều lạ lùng rồi."
Thế nhưng cái tính tò mò trong tôi thì từ nhỏ tới lớn chưa bỏ được. Tên không nói cũng được, chứ chuyện khác thì chắc hỏi cũng không đến nỗi thất lễ. Tôi bèn lựa lời nhẹ nhàng, như người anh cả hỏi han đứa em gái học dưới quê:
- Vậy chớ cô học trường nào? Ngó cô còn mặc áo dài, chắc còn là nữ sinh?
Cô gái mỉm cười, đưa mắt nhìn xa về phía rặng núi, nón lá vẫn nghiêng che nửa mặt:
- Dạ, em học ở Trung Học Ngô Quyền.
Tôi khựng lại một chút. Ủa, Ngô Quyền là trường lớn, tiếng tăm nhất nhì xứ Biên Hòa, có từ hồi Tây còn đóng ở đây. Hồi nhỏ tôi cũng từng mơ vô đó học, nhưng sau phải chuyển đi tỉnh khác theo cha đổi sở. Nghe cô nói vậy, tôi có cảm giác như mình vừa nghe một tiếng chuông cũ vọng về, nhẹ mà vang xa, khơi lại cái gì đó đã ngủ yên nhiều năm.
Tôi buột miệng hỏi tiếp:
- Vậy cô học lớp mấy rồi? Đệ tam, đệ nhị hay đệ nhất?
Cô gật đầu khẽ:
- Dạ, em học lớp Đệ nhất Cấp. Cũng gần thi tú tài rồi.
Tôi ậm ừ gật đầu, miệng cười mà lòng ngẩn ngơ. Tính ra cô còn nhỏ, cái tuổi đẹp đẽ nhất đời người, vừa mới đủ chín để biết thương biết nhớ, mà cũng vừa chớm tới ngưỡng chia tay áo trắng, sắp bước vô cái ngưỡng cửa bộn bề của cuộc đời. Tôi nhớ lại thời mình thi tú tài, bụng cũng lo sốt vó, sách vở chất như núi, thế mà sao cô gái này vẫn ung dung bước dạo giữa hồ núi như chẳng bận điều gì.
Tôi hỏi tiếp, nửa vui miệng, nửa muốn kéo dài câu chuyện:
- Thế sao cô không ôn bài mà còn thong dong lên đây ngắm cảnh vậy kìa?
Cô cúi đầu, nụ cười thoáng buồn mà hiền dịu:
- Có những ngày mình học hoài cũng chẳng vô. Lên đây đi một vòng, nghe gió, nhìn nước, lòng nhẹ lại, rồi về học tiếp cũng chưa muộn.
Câu nói đó thiệt tình làm tôi lặng đi một chút. Cô còn nhỏ tuổi, nhưng cái giọng nói, cái cách nói như người từng trải, thấu hiểu. Không phải cái hiểu của sách vở mà là cái hiểu của người đã đi qua những dằn vặt riêng, như thể cô mang trong lòng một chuyện buồn nào đó mà không muốn kể ra.
Tôi toan hỏi thêm, nhưng kịp dừng lại. Sợ mình hỏi nữa thì làm đứt mạch yên tĩnh. Tôi và cô lại cùng im lặng một lát, chỉ nghe tiếng gió rít nhẹ qua những khóm lau sậy đang nghiêng mình sát mép hồ, như cũng đang thì thầm chuyện gì đó không tên.
Lúc đó, tôi chỉ biết nghĩ một điều:
"Lạ thiệt… giữa cái chiều bảng lảng nơi hồ núi, lại gặp một cô gái kỳ lạ, nói ít mà khiến lòng mình nhớ nhiều. Phải chăng... có điều chi đằng sau cái vẻ thanh thản của cô?"
Hai người cứ đứng đó, trong chiều gió nhẹ, không gian yên tĩnh đến độ nghe rõ tiếng lá rơi. Tôi với cô không nói gì, chỉ để mặc cho thời gian trôi chầm chậm như một làn khói lững lờ giữa núi rừng. Chẳng biết là do trời đất đưa đẩy, hay lòng người có gì xui khiến, bất chợt cô gái quay sang nhìn tôi với ánh mắt lạ lắm, vừa e ấp, vừa như mong mỏi một điều gì chưa thành lời.
Rồi cô khẽ cất tiếng, giọng nói ngọt như tơ:
- Anh Hòa gì đó ơi! Anh có thể đi tản bộ ngắm cảnh với tôi không?
Nghe tới đây, tôi sững người như đứng tim một chặp. Không phải tôi ngạc nhiên hay làm bộ ngỡ ngàng, nhưng thiệt tình, trong lòng bỗng dưng xao xuyến một cách khó hiểu. Trái tim vốn yên ổn bấy lâu, nay tự dưng đập loạn cả lên như trống hội làng.
Tôi nào có vợ con gì, vẫn là trai chưa ràng buộc, lại đang tuổi dấn thân làm ăn dựng nghiệp, đầu óc tính chuyện xa xôi, chớ đâu có chuẩn bị tinh thần cho cái tình cảnh trớ trêu mà ngọt ngào vầy. Gặp một cô gái dưới tuổi mình chừng vài năm, lại chủ động rủ đi tản bộ, trong một khung cảnh nên thơ như thơ vẽ, làm sao lòng tôi không động?
Tôi cười thầm trong bụng, nghĩ:
“Thiệt là chuyện lạ, y như trong mấy truyện tình cảm Pháp mà mấy năm trước mấy ông bạn tôi hay chuyền tay nhau coi. Mà thôi, đừng tưởng bở. Cẩn thận kẻo rơi vô lưới ảo mộng.”
Tôi cũng tự trấn an, nghĩ bụng:
“Biết đâu cô không có ý chi khác, chỉ là người hay mộng mơ, thích chia sẻ chuyện đời với một người xa lạ như mình cho đỡ buồn. Mà cũng phải, cô sắp thi tú tài, chắc học hành cũng nhiều, lòng dễ mỏi mệt, ra đây kiếm chút an yên, gặp được tôi - có vẻ là người vô hại - thì rủ đi dạo cho dễ giãi bày chuyện học trò, chớ nào phải tình nhân tình thiếc như tôi nghĩ quá đáng.”
Tôi gãi đầu cười nhẹ, rồi nói:
- Ờ… thì nếu cô không ngại thì mình đi một vòng cũng được. Cảnh chiều nay đẹp quá chừng.
Cô cười khẽ, đôi mắt long lanh như vừa thoát khỏi một ưu phiền nào đó. Rồi hai người cứ vậy mà sóng bước bên nhau, không hẹn mà cùng đi về phía bờ hồ, nơi ánh nắng cuối ngày còn vương vàng trên mặt nước.
Lúc ấy, tôi không còn phân vân nữa. Mặc kệ ý nghĩa là gì, cô là ai, mục đích ra sao, tôi biết rõ một điều đó là có những khoảnh khắc trong đời người ta không cần phải hiểu hết, chỉ cần biết trân quý và để lòng mình được sống thật một lần với cảm xúc nguyên sơ nhất.
Rồi cứ thế, buổi chiều chầm chậm trôi qua, ánh hoàng hôn sắp sửa buông xuống phía sau chập chùng núi đá xa mờ phương Tây. Bầu trời nhuộm một màu cam đỏ pha hồng, dịu nhẹ như tấm lụa đào ai đó vừa giũ ngang nền trời. Gió từ mặt hồ lùa lên se lạnh, thoảng qua làm rung rinh mấy nhánh lá bên bờ, nghe như tiếng hát khẽ khàng của ai đó đang ngân lên một điệu buồn xa xăm.
Tiếng chim chích chòe rúc rích nơi rặng cây cuối lối, như đang cất lên những âm thanh sau cùng trước khi cả bầy chắp cánh bay về tổ. Mọi vật như đồng lòng im lặng mà lắng sâu, khung cảnh quen thuộc, hữu tình, hôm nay lại trở nên xôn xao trong lòng tôi, nhưng lạ kỳ thay, cái xôn xao ấy lại mang một vẻ yên ả lạ lùng, như là tiếng động của một nỗi bình yên biết nói.
Chúng tôi sóng bước trên con đường mòn lát đá xẻ, những phiến đá vuông được xếp chừa khe, vừa đủ cho cỏ dại chen lên xanh mướt. Hai bên lối là những bụi cỏ lông mềm, điểm xuyết mấy khóm hoa hồng, hoa cúc, hoa lan, hoa dâm bụt, thứ nào cũng tươi tốt, rõ là vừa mới được nhà chức trách đem về trồng trang trí cho đẹp mắt. Mà lạ, giữa cảnh thiên nhiên hoang sơ, mấy loài hoa trồng thêm vào ấy không hề lạc điệu, trái lại như góp thêm sắc màu cho bức tranh chiều nay thêm phần duyên dáng.
Con đường dẫn qua nhiều cảnh trí kỳ thú. Có lúc chúng tôi bước ngang một ngọn núi đá nhỏ, mặt đá lấp lóa phản chiếu ánh hoàng hôn thành màu bạc lấp lánh. Lại có lúc đi ngang qua một cái cầu gỗ bắc ngang suối cạn, có lẽ người ta dựng tạm để khách tham quan chụp hình, vậy mà nhìn vào cũng có nét duyên quê mộc mạc. Xa xa là bờ lau sậy rì rào trong gió, thấp thoáng một chòi nghỉ dựng bằng tre nứa đơn sơ, từ đó có thể ngắm toàn cảnh hồ trải dài tít tắp bên kia bờ.
Dưới hồ, nước phẳng như mặt gương, phản chiếu bầu trời đang nhạt dần màu nắng. Có đôi ba chiếc xuồng đạp vịt dập dềnh, những đôi nhân tình trẻ tuổi đùa vui, tiếng cười vọng về nghe như sóng gợn nhẹ. Cũng có vài bóng người lặng lẽ ngồi câu cá nơi triền đất thoai thoải, dáng người câm lặng, mà toát ra một nỗi buồn nhẹ như gió kiểu buồn của những người neo đơn, tìm chút thanh thản bên cần câu và mặt nước lặng yên.
Tôi vừa đi, vừa nhìn, vừa cảm. Có khi quay sang cô gái bên cạnh, thấy gió đã làm tà áo cô phất nhẹ sau lưng, tóc xõa bay mơ hồ như khói sương. Hai người cứ thế mà bước, không cần phải nói nhiều, vì hình như mọi thứ quanh mình đã đủ đầy để tự nó thành lời.
Lát sau, khi đi ngang qua một khúc quanh của hồ, nơi mép nước ăn sâu vào chân núi, cô gái bỗng dừng chân. Cô không nói gì ngay, chỉ lặng lẽ cúi đầu nhìn xuống mặt hồ phẳng lặng như gương. Rồi cô khẽ đưa tay chỉ về phía trước, đôi mắt vẫn đăm đăm dõi theo làn nước, giọng nhẹ như một lời tâm sự:
- Mặt nước hồ nay xanh hơn cái ngày tôi đến.
Tôi khựng lại, lòng thoáng bồi hồi. Ủa, vậy ra cô đã từng đến đây trước rồi sao? Câu nói tưởng nhẹ tênh mà đánh thức trong đầu tôi hàng chục câu hỏi. Cô đã đến khi nào? Với ai? Vì chuyện gì? Và cớ sao lại trở lại một mình, vào cái giờ chiều vắng như thế này?
Bao nhiêu thắc mắc nổi lên, nhưng chẳng có cái nào tôi dám thốt thành lời. Chỉ biết nhìn theo hướng tay cô vừa chỉ, rồi gật đầu khẽ, giọng tôi cũng không giấu nổi vẻ xúc động:
- Ờ… xanh. Nước ở đây hôm nay xanh mà đẹp quá cô nhỉ?
Cô ậm ừ trong miệng, rồi đáp lại bằng một giọng nói lạ lùng lắm như không phải nói với tôi, mà là nói cho chính mình nghe:
- Anh nói phải lắm. Xanh như tính tình một cô gái.
Câu nói vừa nên thơ, vừa gợi cảm. Tôi nghe xong chỉ biết đứng lặng người một chút. Mà có khi không phải tôi đứng lặng vì ngạc nhiên, bởi từ nãy đến giờ cô gái này đã nói ra không ít những điều vừa dịu dàng, vừa khó đoán mà là vì tôi nhận ra hình như có một thứ gì đó trong cô không phải là thứ người đời thường hay mang.
Rồi không ai bảo ai, cả hai lại tiếp tục bước đi. Mà kỳ lạ thay, hai bàn tay chẳng hiểu tự khi nào đã nắm lấy nhau. Không có cái ngại ngùng vụng về thường thấy, cũng chẳng có màn chạm nhẹ rồi vờ rút tay ra. Tự nhiên như thể điều đó đã từng xảy ra trước đây, trong một lần nào đó ở một đời khác.
Tôi không ngạc nhiên. Không một chút nào. Trái lại, tôi thấy lòng vui vui, một niềm vui nhẹ như gió đồng, nhưng sâu như lòng hồ. Tay cô mềm mà lại ấm, cái ấm ấy không giống với bất kỳ bàn tay nào tôi từng nắm qua. Không phải cái ấm của máu nóng thịt da thường tình, mà là cái ấm khiến người ta nghĩ tới một thứ gì mơ hồ, sâu xa như thể nó phát ra từ ký ức, từ một điều đã ngủ quên rất lâu trong lòng mình.
Tôi bỗng thấy bối rối. Không hiểu đó là tình cảm mới nảy nở... hay là một mối duyên đã có từ lâu mà nay chỉ vừa kịp quay lại? Cái nắm tay này lẽ ra không nên có, hay là đã từng có rồi mà nay chỉ là tiếp nối? Tôi không rõ nữa. Chỉ biết rằng trong khoảnh khắc đó, tôi chẳng muốn buông ra.
Đi một hồi, cả hai bước qua một khúc quanh thì gặp một gốc cây xà cừ lớn, thân sần sùi bạc thếch, rõ là loại dầu trồng từ thời Pháp thuộc, chắc cũng hơn trăm tuổi. Trên cao, mấy nhánh lan rừng mọc bám theo thân cây, hoa vừa trổ, từng chùm trắng ngà rũ xuống như những giải lụa mỏng đong đưa theo gió. Khung cảnh đó đẹp đến ngẩn ngơ, cái đẹp không cần tô vẽ mà vẫn làm người ta chùn chân ngước nhìn.
Tôi ngước lên một hồi, rồi bỗng nảy ra ý muốn lạ lùng. Không biết cái ý nghĩ đó ở đâu tràn tới, tôi chỉ thấy lòng thôi thúc muốn làm điều gì đó cho cô. Tuy chỉ là một điều nhỏ thôi, nhưng có thể ghi lại một dấu ấn trong cái chiều mơ hồ đang trôi này.
Tôi đưa tay bứt lấy mấy cánh hoa lan, rồi quay sang cô, giọng khẽ khàng mà có chút nghịch ngợm:
- Tôi cài cho cô nhé?
Cô gái thoáng ngạc nhiên, ánh mắt mở to, đôi má dường như đỏ lên dưới ánh nắng hoàng hôn còn sót lại. Có vẻ như cô không ngờ tôi lại làm điều ấy, dẫu tôi biết nó hơi vượt khỏi cái giới hạn thông thường giữa hai người mới quen. Nhưng rồi cô cũng không từ chối, chỉ mím môi, e lệ cúi đầu, khẽ gật. Tôi nhẹ tay vén một lọn tóc mai rồi cài hoa lên chầm chậm, như đang gìn giữ một điều gì mong manh dễ vỡ.
Khi tôi vừa cài xong, cô bất chợt lên tiếng, giọng trách yêu nhưng rõ là chỉ để trêu ghẹo:
- Anh hái hoa coi chừng bị họ bắt đấy…
Tôi bật cười, nhìn quanh một vòng như thể đang tìm người rình rập, rồi nói bằng cái giọng nửa bông đùa nửa thật lòng:
- Họ bắt tôi chứ có bắt cô đâu mà cô lo.
Cô gái nghiêng nghiêng đầu, ánh mắt liếc ngang qua tôi, môi thoáng một nụ cười nửa trách nửa vui:
- Nhưng dù sao anh đang đi với tôi kia mà.
Nghe tới đó, tôi chững lại. Ờ, cô nói cũng phải. Nếu chẳng may người ta làm khó, thì mình là người bị bắt, mà cô cũng bị liên lụy phần nào ít ra cũng là cái tiếng đi chung với người hái hoa bậy. Nhưng nghĩ cho cùng, tôi nào phải loại người dễ bị răn đe vì vài điều nhỏ nhặt. Tánh tôi từ nhỏ tới lớn, đã muốn làm chuyện gì thì cứ làm, cái sợ thì có đó, nhưng mà làm rồi thì quen, riết cũng thành thói.
Tôi nhìn cô, cười cười:
- Ừ, thì… tôi cũng hơi liều thiệt. Nhưng vì cô đẹp quá, mà hoa này thì hợp với cô, không cài cho cô một bông thì tôi thấy tiếc lắm.
Cô không nói gì, chỉ cười khẽ rồi quay đi. Nhưng tôi biết cái quay đi ấy là để giấu đi nụ cười còn đang rạng trên má.
Thế là cả hai lại lặng thinh thêm một quãng. Không ai nói với ai lời nào, chỉ thỉnh thoảng liếc trộm rồi tủm tỉm cười như đám học trò vụng dại mới biết thương ai lần đầu. Mà chẳng ai dám nhìn thẳng vào mắt người kia, chắc sợ cái nhìn đó sẽ nói ra hết những điều đang giấu trong lòng. Cứ thế mà bước, chân nọ nối chân kia, men theo con đường uốn lượn ven hồ cho tới lúc trước mặt hiện ra một cái chòi nghỉ nhỏ, lợp lá, cột tre, nằm hơi khuất sau rặng trâm bầu.
Tôi dừng lại, chân cũng bắt đầu rịu rã, ê ẩm sau một hồi đi gần nửa vòng hồ. Tôi quay sang, liếc khẽ đôi dép của cô gái, lòng chợt động nghĩ:
“Chắc cô cũng mỏi chân như mình.”
Không chờ lâu, tôi bèn lên tiếng:
- Chà… hay là mình vô chòi nghỉ chút nghen cô?
Cô không trả lời liền, chỉ gật nhẹ rồi bước theo tôi. Mà thiệt, đến cái chòi nghỉ rồi, ngồi xuống chiếu tre trong đó, tôi mới thấm mệt. Gió thổi ngang qua mái lá, mát rượi như vừa được rót một gáo nước trong từ suối mộng nào đó. Cảnh vật xung quanh vắng hoe, chỉ có tiếng gió lùa qua khóm tre sau lưng và tiếng nước khẽ nhấp nhô vỗ vào bờ đá.
Ngồi được một chút, lòng tôi lại nổi lên cái nỗi... không phải lo sợ mà là cái thứ ngại ngần. Tôi nhìn quanh, cảnh vắng quá đỗi vắng. Mà vắng kiểu gì đó khiến người ta tưởng tượng lắm chuyện. Tôi nghĩ:
“Lỡ đâu có ai từ bên kia hồ nhìn qua, thấy tôi với cô ngồi riêng một chòi nghỉ, chắc lại tưởng tôi là tay lãng tử, chuyên đi dụ dỗ mấy cô tiểu thư nết na nhà lành. Tệ hơn nữa, người ta mà không hiểu chuyện, lại thêu dệt thành thứ gì trái tai gai mắt thì khổ.”
Tôi khẽ liếc sang cô. Cô vẫn ngồi ngay ngắn, hai tay đặt gọn trong lòng, dáng đoan trang như thể đã ngồi đó từ lâu lắm rồi. Mắt cô không nhìn thẳng mà lại đưa về phía mặt hồ, thi thoảng mỉm cười rất nhẹ cái cười vừa như vô tình, vừa như hữu ý. Mà kỳ lạ thay, tôi cứ hễ lơ mắt đi nơi khác là lại có cảm giác như cô đang... nhìn tôi. Không phải cái nhìn soi xét, cũng không phải nhìn để dò xét điều chi, mà là cái nhìn dịu dàng giống như người ta nhìn một điều thân thuộc đã từng gặp ở đâu đó trong mộng, giờ chỉ cần lặng yên mà ngắm lại.
Nói thiệt, trong lòng tôi khi ấy không biết nên vui hay nên ngại. Cái cười nhẹ ấy của cô dẫu chỉ thoáng qua như sương buổi sớm vậy mà làm lòng tôi ấm lên như có người nhóm bếp lửa giữa đêm khuya. Ở đời nhiều khi chỉ cần một ánh nhìn, một nụ cười vậy thôi, cũng đủ để người ta bớt thấy mình lạc lõng giữa cuộc đời trống trải.
Nghĩ tới đó, tôi bỗng thấy lòng mình dịu xuống, mấy cái sợ hãi ban nãy cũng theo gió mà tan đi. Tôi không biết cô là ai, không rõ duyên do nào đưa cô đến đây, nhưng chỉ biết rằng: buổi chiều hôm nay, nhờ có cô mà mọi thứ quanh tôi bỗng trở nên nhẹ nhàng, dễ thở, và có nghĩa.
Thế mà chẳng rằng chẳng đoán, tôi nào có biết chuyện gì đâu... Nhưng bụng thì cứ cồn cào như lửa châm, thiệt tình muốn dò hỏi cho ra lẽ. Lạ lùng vậy chớ, sao một cô gái trẻ, đẹp đẽ, nết na như bông hoa sớm lại đi rủ tôi - một người đàn ông xa lạ - cùng tản bộ, ngồi chung chòi nghỉ, lại chẳng hề ngại ngần. Ở đời, có mấy ai không sợ dị nghị? Mà tôi thì càng sợ. Cái thân tôi đâu phải tay lãng tử, mà người ta thấy thế này thế nọ thì mang tiếng biết chừng nào.
Trong đầu tôi lúc đó, hàng loạt câu hỏi dồn dập như mưa đầu mùa. Cô là ai? Vì sao lại tới đây một mình? Vì sao lại quen thuộc nơi này như từng gắn bó? Mà tại sao, giữa bao người, cô lại chọn tôi để đi cùng?
Tôi hít một hơi, lấy hết can đảm - cái can đảm sau bao lần suýt hỏi rồi lại nín - mà mở lời, cố giữ giọng cho nhẹ nhàng, như là nói chuyện mây trời:
- Cô nè, tôi hỏi thiệt. Sao cô lại rủ tôi đi tản bộ? Tôi thấy... ừ thì... cô trẻ trung, đẹp đẽ vậy, đi một mình với tôi cũng dễ bị người ta hiểu lầm.
Cô gái quay sang, mắt khẽ chớp, nụ cười thoáng hiện như chưa từng suy nghĩ gì về điều tôi vừa nói. Giọng cô lanh lẹ, mà không kém phần duyên dáng:
- Thì tại anh cũng đang đi một mình, tôi cũng vậy. Mình gặp nhau ở chỗ đẹp, cảnh đẹp, người lạ đi chung lại dễ trò chuyện chớ sao. Chứ tôi rủ người quen chưa chắc người ta chịu đi cùng.
Tôi cười ngượng. Cô nói như đẩy khéo hết mọi thắc mắc của tôi ra ngoài mép hồ. Rõ là lanh trí, lại biết cách né mấy cái câu tôi gài. Nhưng trong lòng tôi thì chưa chịu thua đâu. Vậy là tôi buột miệng nói ra một câu thiệt lòng, không cố ý trêu đùa gì, mà chỉ là lời nghĩ gì nói nấy:
- Chớ... cô đẹp vậy mà không có người yêu thì uổng quá.
Câu đó vừa buông ra, tôi thấy gương mặt cô thoáng đổi. Không hẳn là giận, mà là một chút buồn lặng, cái buồn không lời, thoáng qua như một áng mây trôi ngang mặt hồ rồi tắt mất. Cô không trả lời liền, cũng không nhìn tôi. Chỉ im lặng, đưa mắt nhìn ra rặng núi phía xa, nơi hoàng hôn đã tắt hẳn, chỉ còn lại một màu tím nhạt giăng kín trời chiều.
Tôi chột dạ. Lỡ lời rồi chăng? Mồ hôi bỗng rịn nơi trán, tôi vội vàng chữa cháy:
- Xin lỗi cô, tôi nói bậy nói bạ, không có ý chi đâu, cô đừng buồn.
Cô quay lại, mắt cười nhẹ, giọng trấn an mà nghe như có chút gì xa xôi lắm:
- Không sao đâu, anh Hòa. Tôi ổn mà.
Rồi cô quay mặt đi một chút, ngồi thẳng lại như lấy đà cho một chuyện dài hơn. Đôi bàn tay đan lại với nhau đặt trong lòng, giọng nói chậm rãi, pha chút gì đó của người đã lớn hơn tuổi thật:
- Thật ra... tôi từng có người theo đuổi. Từ hồi tôi còn học đệ tam ở Ngô Quyền. Hồi đó còn ngây ngô, mới đầu chỉ là bạn, học chung lớp, lâu lâu đưa nhau tới chỗ này chơi... cũng nơi đây, cũng lối đi này, cũng bông lan trên cây đó...
Cô ngừng một chút, như để nhìn kỹ lại những hình ảnh cũ đang sống dậy trong ký ức, rồi tiếp:
- Rồi một thời gian sau, chẳng biết sao lại thương nhau thiệt. Cũng không có gì quá lời, chỉ là mỗi lần rảnh, hai đứa lại lên đây, nói chuyện vu vơ, ngắm mây, ngắm hồ, thấy vui là đủ. Vậy mà cũng gần hai năm.
Tôi ngạc nhiên hỏi ngay, giọng bật ra vì bản năng hơn là chủ ý:
- Vậy sao cô lại đi với tôi hôm nay? Không sợ ảnh ghen sao?
Cô quay sang, ánh mắt không gợn chút lo âu nào:
- Anh đó không biết đâu. Mà có biết chắc cũng không sao đâu. Tôi không ngại. Đôi khi... chỉ là đi dạo với một người lạ để nhớ lại một điều cũ. Vậy thôi.
Tôi nghe xong mà trong lòng nửa nhẹ, nửa dậy lên một nỗi hoang mang khó tả. Cái cách cô nói chuyện yêu đương mà nhẹ tênh, như một làn sương, có đó, rồi tan mất, khiến tôi không biết mình đang đi bên một cô gái mang chuyện xưa còn dang dở, hay là đang lạc vào giấc mộng của người khác.
- Cô nói chuyện nghe dễ dàng ghê. Tôi ước gì mình cũng được như cô, thì hay biết mấy.
Nghe tôi buột miệng than vậy, cô gái quay qua, mắt tròn mà trong, ánh chiều chiếu vô làm đôi con ngươi long lanh như nước mặt hồ. Cô nghiêng đầu, giọng nhẹ như gió thoảng:
- Ý anh là sao? Anh kể tôi nghe đi.
Tôi thở ra, cười gượng:
- Thì từ trước tới giờ, chuyện gì tôi cũng thấy nặng nề, khó đoán. Tính tôi vậy, hay nghĩ xa, hay phân vân, lại cứ muốn mọi thứ phải theo khuôn theo phép. Gặp chuyện lạ thì đâm nghi, gặp người tốt cũng chẳng dám tin liền. Nói thiệt, cái kiểu tính toán đó nhiều khi làm mệt mình chớ chẳng lợi chi.
Cô không đáp liền. Chỉ cúi đầu im lặng, tay vân vê mấy cọng cỏ bên chòi như đang suy nghĩ điều gì. Tôi lại tiếp tục lên tiếng, nửa đùa nửa thật:
- Mà cô nè... cô coi bộ cũng là gái đoan trang, nết na, chắc gia đình cũng khá giả. Tôi nghĩ, con nhà lành như cô, sao lại một mình lặn lội vô nơi vãng lai hoang vắng thế này? Lỡ đâu... ba má cô hay, biết đâu họ đang đi tìm cô, gặp tôi ở đây thì không khéo lại tưởng tôi là kẻ xấu dụ dỗ con gái nhà lành.
Nói tới đó, tôi tự dưng nghe lạnh sống lưng. Lời thì nói chơi, nhưng lỡ thành thiệt thì khốn. Tôi đang định rút lời lại thì cô bất ngờ xua tay, cười mỉm, giọng nói khéo như thể đã quen với cái kiểu nghi ngờ ấy:
- Anh chớ lo xa. Ba má tôi không biết tôi ở đây đâu.
Tôi nghe mà trố mắt. Ủa, lạ kì. Vậy... cái anh người yêu thì không biết, ba má cũng không hay. Cô này đi đứng làm sao mà chẳng ai biết gì cả? Giữa cái thời người ta sợ con gái ra khỏi nhà một mình bị dị nghị, thì cô lại thảnh thơi dạo hồ, cười nói với người lạ, mà dáng điệu thì cứ nhẹ nhàng, chẳng có vẻ gì lo sợ hay đề phòng.
Càng lúc, tôi càng thấy cô bí hiểm ghê. Đẹp thì đẹp thật đó, hiền nữa, nói năng có duyên nhưng cái cách cô hiện diện ở đây, giữa buổi chiều như mơ như mộng, không ai hay biết, cứ như cô bước ra từ trong một giấc mộng cũ vậy.
Tôi cắn môi, trong bụng nghĩ:
“Cái cô này là ai vậy cà? Thiệt hay giả? Mộng hay thực? Người hay một thứ gì đó mà tôi chưa từng gặp bao giờ?”
Mà thôi, nghĩ nữa chắc tôi cũng rối thêm. Chỉ biết cô đang ngồi đây, cạnh tôi, giữa buổi chiều tàn gió vẫn thổi, trời vẫn trong, hoa lan trên tóc cô vẫn nhẹ rung từng cánh mỏng. Dẫu là gì đi nữa, thì trong khoảnh khắc này tôi vẫn thấy vui. Một niềm vui rất lạ nhẹ như tơ, nhưng in rất sâu trong lòng.
Ngồi thế này, trong cái chòi lá đơn sơ giữa trời chiều ngã bóng, nói tới mấy chuyện không đâu như người yêu cũ, ba má có biết không chỉ tổ làm thêm chán. Với lại, nói kiểu đó hoài chỉ khiến tôi càng tò mò thêm về cô mà chẳng được gì. Cô thì khéo, nói né ra được hết. Tôi thì bụng dạ nóng như lửa, nói tới đâu suy nghĩ tới đó, riết rồi đâm vòng vo. Vậy nên, tôi nghĩ bụng:
“Thôi, chi bằng đổi chuyện nói cho vui. Kể cho cô nghe chuyện mình, như là khách lạ gặp nhau, hỏi thăm chơi cho đỡ cấn cấn.”
Tôi quay qua, vừa cười vừa gãi đầu như lấy đà:
- Cô biết không? Thật tên tôi là Hòa. Mà cái tên này cũng có chuyện hay, không phải đặt bừa đâu.
Cô gái nhìn tôi, ánh mắt như chờ đợi. Tôi bèn kể:
- Ba má tôi hồi xưa nghèo lắm. Sinh tôi đúng năm cả xóm còn đói meo, chiến tranh dằng dai, nhà nào cũng lo sợ. Vậy nên ba tôi đặt tên tôi là Hòa, mong cho đời tôi với đời người được yên ổn, thuận hòa. Ổng nói: “Mình nghèo cũng được, nhưng miễn sau này con mình đừng phải sống cảnh loạn ly như mình.” Cái tên Hòa là từ đó ra đó, nghe đơn giản mà nặng tình.
Tôi nói tới đó, mắt cũng nhìn ra xa như nhớ đâu đâu. Rồi tôi cười nhẹ:
- Hồi nhỏ tôi ngây ngô lắm, hỏi ba hoài:
“Sao không đặt tên con là Tài, là Lộc như mấy đứa bạn?”
Ba chỉ cười, không trả lời. Giờ lớn rồi mới hiểu, ổng không mong con mình giàu sang, chỉ mong mình sống cho yên thân, đừng gây hại ai, đừng bị ai hại.
Cô gái nghe xong, chỉ mỉm cười không nói, cũng không khen, nhưng ánh mắt đó cho tôi biết cô hiểu.
Tôi kể tiếp, như trút ra từng mảnh đời mà lâu nay cất giữ:
- Tuổi thơ tôi thì bình thường như bao đứa quê khác. Sáng dắt trâu, chiều hái rau, tối học đèn dầu. Học hành không giỏi giang chi, nhưng cũng chịu khó. Lên trung học thì ra Biên Hòa học trường tỉnh, chắc cô biết Dục Đức ngoài chợ, mà ngờ đâu học một năm phải chuyển trường.
Tôi liếc cô, thấy cô nhếch miệng cười, chắc là biết. Tôi nói tiếp, giọng pha chút tiếc nuối:
- Thời đó thì vui thiệt, nhưng cũng nhiều thứ trái ngang. Bạn bè lắm, nhưng thân tình ít. Có khi nhớ nhà quá, ngồi giữa sân trường mà muốn khóc. Học cũng được, cũng từng mơ làm ông kỹ sư, ông thầy giáo... mà rốt cuộc ra đời thì làm nghề buôn bán, xoay xở đủ thứ.
Tôi ngừng một chút, rồi cười khẽ:
- Mà... nhắc tới tình duyên thì cũng có chút chuyện để kể. Tôi không giấu gì cô, tôi từng có mấy mối tình. Mối đầu là thời còn đi học, thương con nhỏ bán nước bên hông trường, má lúm, tóc thắt bím, thương nhau mà không dám nói. Tới lúc định mở lời thì nó theo thằng đạp xích lô cao ráo, cái mặt nhìn phát ghét!
Tôi bật cười, quay sang nhìn thấy cô đang cúi trông xuống, tay che miệng duyên dáng. Tôi thấy vui, kể tiếp:
- Mối thứ hai thì lớn hơn rồi, lúc đi làm. Cô đó là thư ký trong hãng, đẹp mà lạnh. Tôi theo đuổi gần năm trời, tưởng đâu êm xuôi, ai dè bữa nọ tôi đem bông hồng tới tặng sinh nhật, thì gặp cô đang ngồi trong quán với sếp lớn.
Tôi làm bộ xị mặt, giọng nửa đùa nửa thiệt:
- Thành ra tình duyên tôi cũng lắm nỗi gian nan. Nói ra không phải để cô cười, cũng không phải để đòi đồng cảm chi. Chỉ là tôi quen rồi cái thói gặp người mới thì kể chuyện cũ, như người ta rót trà mời khách.
Tôi dừng lại, nhìn cô. Cô vẫn lặng nghe, không chen ngang, chỉ giữ nụ cười nhẹ trên môi nụ cười nghe ấm như cái nắng sắp tắt bên hồ. Tôi không biết cô nghĩ gì. Nhưng trong khoảnh khắc đó, tôi cảm thấy cô gần gũi với tôi lạ kỳ, làm tôi cứ tưởng như một người bạn cũ mà tôi chỉ vừa mới gặp lại sau bao nhiêu năm lưu lạc.
Mà kể hoài cũng chán chớ, cái miệng tôi thiệt nhiều khi cũng không biết ngừng ở đâu. Tưởng nói vài ba chuyện rồi thôi, ai dè rút dây động rừng, kể từ chuyện tên họ tới mấy mối tình cũ rích, kể xong rồi mới ngẫm: ủa, sao mình nhiều chuyện dữ vậy trời?
Lúc đang loay hoay không biết có nên tiếp nữa không thì nghe cô gái cất tiếng, nhỏ nhẹ mà rõ ràng, như thể chờ đúng cái lúc này mới nói:
- Anh Hòa… hay là mình đi đạp vịt đi?
Tôi nghe xong quay đầu lại, hơi ngơ ngác:
- Hả? Cô nói cái gì cơ?
Cô mỉm cười:
- Mình đi đạp vịt. Ngồi đây cũng hơn mười lăm phút rồi.
Tôi đưa tay nhìn đồng hồ thoáng giật mình. Ờ ha, mới đó mà đã mười lăm phút. Hồi nãy tôi tính bụng vô đây nghỉ chừng mươi phút, hớp miếng gió rồi đi tiếp, ai ngờ nói chuyện mùi mẫn với cô quá trời, giờ ngó lại thì mặt trời cũng đã xế hơn nửa độ, nắng đã ngả vàng lắm rồi.
- Ờ… cũng phải! - tôi gật gù, cười cười.
Từ cái chòi này về tới bến đạp vịt chắc mất chừng mười phút đi bộ, vì phải men theo nửa cái hồ còn lại. Nhưng tôi đâu thấy gì phiền. Cảnh vật thì đẹp, lại được cùng đi với một cô nữ sinh coi bộ duyên dáng, chuyện trò thì hợp ý, ánh mắt thì dễ thương… Nói gì thì nói, cái kiểu cùng nhau dạo một vòng hồ, rồi lên thuyền đạp vịt giữa chiều lặng sóng có khác gì một đoạn phim tình cảm kiểu Pháp hồi xưa mà mình vẫn coi lén trong rạp đâu?
Tôi đứng dậy phủi quần, tay chìa ra như một thói quen lịch sự:
- Vậy thì mời cô đi tiếp với tôi. Lần này là để vận động thể lực!
Cô gái cười khúc khích, bàn tay nhỏ nhắn đặt nhẹ lên tay tôi. Gió chiều thổi lồng lộng, mấy nhánh cây bên hồ nghiêng nghiêng như cũng theo chân hai đứa mà tiễn bước. Cái bóng hai người - một cao một thấp - kéo dài xuống mặt đất, rung nhẹ theo nhịp bước đều đều, lòng tôi bỗng thấy lạ lắm.
Không hiểu vì khung cảnh nên thơ, vì lòng mình đang chùng xuống, hay vì cái nắm tay ấy vẫn còn ấm mãi mà tôi thấy như mình đang bước vào một giấc mộng không ai đánh thức được.
Lát sau, chừng độ mười lăm phút tản bộ mải miết, ngó mây ngó trời, ngắm núi soi bóng xuống lòng hồ, tôi với cô cũng đã bước tới bến thuyền tự bao giờ mà chẳng hay. Cảnh vật nơi đây lúc chiều tà đã nhuốm một màu tàn úa, mây trời bảng lảng trôi lững thững sau dãy núi đá lô nhô, mấy cánh chim nhỏ xíu vội vã bay về tổ như cũng sợ muộn. Nước hồ Long Ẩn dưới chân bỗng nhiên như phẳng lặng hơn thường lệ, một màu xanh đậm dần, đậm đến độ tưởng như đụng vào là sẽ lạnh ngắt cả hồn.
Bến vắng, chỉ còn lác đác vài người khách vừa trả thuyền, quầy cho thuê cũng hiu hắt, mấy chậu bông giấy hai bên bờ rũ xuống, cánh hoa mỏng manh mà nhợt nhạt như vừa trải qua một cơn mơ dài. Gió từ mặt hồ thổi tới, lạnh nhẹ như một lời thở dài chưa dứt.
Tôi quay qua cô, khẽ nói như một lời rủ rê có chừng mực:
- Thôi, chắc mình xuống đạp vịt chừng mười lăm phút nữa rồi về. Chớ trời sắp tối, ở đây lâu không tiện.
Cô gái không trả lời liền, chỉ mỉm cười. Nhưng sao nụ cười đó lần này không còn cái hồn nhiên ban nãy, mà lại se sẽ lạnh, cái lạnh không phải từ gió hồ thổi lên, mà như từ trong mắt cô tỏa ra, vừa kỳ lạ vừa rợn ngầm ngầm. Tôi thoáng giật mình, nhưng cũng chỉ nghĩ cô lạnh thiệt nên cười vậy. Cô gật đầu:
- Ừ, anh nói sao cũng được.
Tôi bèn bước tới quầy cho thuê thuyền, nơi một ông già đang ngồi thọc hai chân xuống sạp gỗ, tay gõ nhịp gì đó lên mặt ghế. Nhìn tướng thì già lắm rồi, chòm râu bạc phơ, áo khoác dày cộm mà đôi mắt thì sáng tới kỳ.
Tôi bước tới, nói gọn:
- Cho tôi mướn một chiếc thuyền vịt nghen bác.
Ông già liếc tôi một cái, rồi cau mày:
- Cậu đi có một mình, mướn thuyền làm gì?
Tôi ngớ người:
- Ủa, bộ bác không thấy tôi đi với cô gái nãy giờ sao? Cô đang đứng đó kìa.
Tôi chỉ tay ra sau. Nhưng ông lắc đầu, gằn giọng chậm rãi:
- Cậu đi một mình từ đầu tới cuối. Đừng có đùa kiểu đó… Hồ này linh lắm.
Tôi nghe mà nóng mặt. Trong bụng nghĩ chắc ông này già rồi lẩm cẩm, hoặc chọc quê mình chơi. Tôi lật đật rút tiền ra, dí vào tay ông:
- Thôi thôi, bác cứ cho mướn đi, không đùa đâu. Cho tôi chiếc thuyền đó, chiếc nào đạp được là được. Mười lăm phút thôi mà.
Ông già cầm tiền, nhưng miệng vẫn lẩm bẩm như nói một mình:
- Người ta thấy một, còn cậu thấy hai thì cũng là do cậu muốn vậy. Mà đừng trách ai... Người hoang tưởng nhiều khi không biết mình hoang tưởng mà.
Tôi nghe tới đó thì cười hắt ra một tiếng, bước nhanh xuống bến, tay nắm tay cô gái kéo đi như thể để bỏ lại hết mấy câu nhảm nhí phía sau. Cô vẫn đi bên tôi, chân không chạm tiếng động nào, nhẹ tênh như gió thoảng qua khóm lau sậy đầu hồ...
Vừa đặt chân xuống thuyền, tôi đã thấy có gì đó không ổn. Chiếc thuyền gỗ cũ, nước sơn đã tróc lở theo năm tháng, những vết trầy nhám như dấu tích bao mùa mưa nắng đọng lại. Nó là chiếc cuối cùng ở bến, nằm chỏng chơ ở mép nước, giống như đang chờ ai tới muộn nhất. Mấy cặp khác thì cũng vừa đạp vào bờ, cười cười nói nói, chắc là mướn theo giờ, nên tới lượt tôi thì còn đúng một chiếc. Té ra là vậy, thôi thì cũng được, trời định hay người để cũng là cái duyên.
Tôi cười nhẹ, quay sang cô:
- Thôi mình đi, chiếc cuối cùng mới quý.
Cô gái chỉ mỉm miệng, bước xuống nhẹ nhàng. Tôi theo sau.
Nhưng vừa mới đặt cả hai chân lên thuyền, lạ lắm, thiệt tình không có một chút chao đảo nào hết. Không lắc, không tròng trành, không lún nhẹ xuống nước như thường lệ. Cái cảm giác ấy phải nói là y như tôi vừa bước lên một tảng đá vững như bưng bê. Mà tôi đã đi đạp vịt rồi, biết rõ, cái thuyền nhỏ hễ có người bước lên là phải nghiêng nhẹ một cái, nhất là tôi nặng tới năm mươi bốn ký, cô gái kia dù có nhẹ thì cũng phải khiến thuyền hơi tròng trành một chút.
Vậy mà…
Tôi đứng giữa thuyền, nhìn quanh, lấy chân đạp thử một cái không động. Rồi quay sang nhìn cô, thấy cô vẫn ngồi đó gọn ghẽ, tóc buông xuống vai, áo dài khẽ phất trong gió như tơ lụa vừa hong nắng. Cô nhìn tôi, không nói gì, chỉ cười nhẹ vẫn cái cười đó, nhẹ mà như xa xôi lắm.
Tôi ngó lại lên bờ thì thấy lão già kia vẫn còn đứng đó, tay chống nạnh, lắc đầu từng cái chậm rãi, miệng lẩm bẩm gì đó mà tôi không nghe được. Thấy tôi quay lại, lão bỗng đưa tay chỉ chỉ như ra hiệu rồi phẩy đi một cái, vẻ như chán không thèm nói nữa.
Mà thôi kệ, già rồi lẩm cẩm chăng? Hoặc là tôi mướn thuyền trễ quá, lão bực trong bụng nên kiếm chuyện sinh sự. Mà chuyện quái quỷ gì cũng để sau, chớ lúc này gió mát, trời chiều, cảnh hồ lặng lẽ như mộng lại có người con gái ngồi kế bên như vầy thì đời còn mong chi hơn?
Tôi ngồi xuống, cầm tay lái, đạp thử một vòng bánh nước. Chiếc thuyền bắt đầu rẽ ra mặt hồ, lặng lẽ như lướt trong gương không một tiếng kẽo kẹt, không một tiếng sóng vỗ. Mặt hồ phẳng như tấm gương lụa, soi bóng trời chiều đang ngả vàng dần về phía núi. Một thứ im lặng lạ lùng bao trùm cả khung cảnh, đến độ tôi có cảm tưởng mình đang trôi trong một bức tranh, mà người họa sĩ nào đó đang ngồi đâu đó mỉm cười vẽ tiếp.
Thuyền rẽ nhẹ giữa lòng hồ, từng vòng bánh nước quay đều dưới chân tôi mà không phát ra tiếng động nào đáng kể. Mặt hồ Long Ẩn lúc ấy phẳng lặng đến lạ, như mặt gương cũ soi lại những đoạn đời xưa cũ. Gió chiều thổi nhẹ qua, mát mà cũng buốt không hiểu do nước hồ hay do lòng tôi dần dần chùng xuống.
Giữa khi thuyền lặng trôi, cô gái bỗng buông nhẹ vành nón ra sau lưng, tháo chiếc trâm gài rồi buông xõa mái tóc dài xuống. Trời ơi… cái khoảnh khắc ấy, tôi còn nhớ rõ như in, tóc cô dài đen nhánh, óng như sợi mây đan với nắng chiều, khẽ bay nhẹ trong gió mà làm tôi đứng hình. Tóc phủ qua vai, qua cả bờ áo, bồng bềnh như tơ trời rũ xuống bức tranh sống động đang lướt qua mặt hồ.
Tôi lén nhìn mà dám chắc chưa từng thấy một người con gái nào đẹp như vậy trong đời. Không phải cái đẹp của thời thượng son phấn chợ búa, mà là cái đẹp như từ trong một truyện cổ nào đó bước ra dịu dàng, trong sáng, mà lại như mang mang điều gì xa lắm… Đẹp đến độ tôi bối rối, không dám nhìn lâu. Khi cô quay qua, đôi mắt vừa sáng, vừa u uẩn, thì tôi giật mình quay đi chỗ khác, như thằng học trò mới biết yêu lần đầu.
Rồi bỗng nhiên, giữa cái im lặng đang chực trôi đi theo gió, cô gái cất tiếng:
- Anh Hòa, em tên là Thư.
Tôi quay qua, khẽ gật, chưa biết nói gì thì cô nói tiếp, giọng nàng như tiếng gió khẽ luồn qua khe núi:
- Hồi nãy nghe anh kể chuyện thời thơ ấu, em cũng muốn kể chút gì về mình, để cho cân bằng.
Tôi khẽ mỉm cười, không chen ngang, chỉ gật đầu ra hiệu lắng nghe. Nàng nhìn xuống mặt nước, ngón tay gõ nhè nhẹ lên thành thuyền, rồi bắt đầu kể:
- Em sinh ra ở Biên Hòa, nhà ở gần đây. Hồi nhỏ cũng hay ra bờ sông chơi, hay vớt bèo tây với mấy đứa trong xóm. Lúc đó vui lắm, thiệt tình không nghĩ lớn lên lại buồn nhiều như bây giờ.
Cô dừng lại một chút, rồi chậm rãi nói tiếp, giọng đã hơi se se:
- Lên trung học thì học giỏi, nhưng chuyện gia đình thì chẳng dễ dàng gì. Ba má khó lắm, lúc nào cũng bắt học cho nhiều, không được yêu đương sớm. Có ai để ý em thì má la dữ lắm, nói con gái mà lơ tơ mơ là khổ cả đời. Nhưng rồi cũng không tránh được. Em có thương một người mà ba má không chịu, nhất định bắt em bỏ. Họ muốn em sau này lấy một người giàu, có chức quyền, để đổi đời.
Nàng nói tới đó, tôi nghe trong giọng như có một lớp nước mắt chưa rơi ra. Không oán hận, không trách móc chỉ buồn thôi, một nỗi buồn nhẫn nhịn, như đã quen với những điều không thuộc về mình.
Tôi siết nhẹ tay lái, rồi quay sang, giọng trầm xuống:
- Nghe thấy buồn. Buồn cho cô, và buồn cho cả mấy người như tôi đây, chắc vì mình còn tin tình yêu mà lại thấy nó bị coi như món hàng đổi chác.
Cô không đáp, chỉ khẽ cười, mà cái cười đó sao nghe nhói lòng. Tôi lặng người đi một hồi, chẳng biết nói thêm gì, chỉ nhìn thẳng ra mặt hồ. Nước bây giờ sẫm lại, bóng hoàng hôn đã lấp hẳn sau rặng núi, để lại một màu tím phớt nơi chân trời. Mặt hồ gợn nhẹ, từng con sóng nhỏ đẩy chiếc thuyền chầm chậm trôi đi, chẳng biết về đâu cũng như tôi, như cô chẳng ai rõ là mình đang đi đến đâu trong cái chiều đang dần khép lại này.
Thời gian thiệt là cái thứ khó giữ. Nó đi qua hồi nào không hay, như một cơn gió thoảng nhẹ qua mái hiên, như làn nước lăn tăn trên mặt hồ khi không ai để ý. Tôi vừa coi đồng hồ, thấy kim đã chỉ quá mười phút từ khi tôi với cô xuống thuyền. Ủa, sao lẹ dữ vậy trời? Hồi nãy còn tưởng mới ngồi chừng năm bảy phút, giờ đã trôi quá mười phút rồi. Mà lạ... tôi lại chẳng muốn đứng dậy, cũng chẳng muốn quay thuyền về. Cái cảm giác muốn níu lại một điều gì đó mơ hồ, chưa kịp hình thành, mà như sắp vuột mất.
Tôi nhìn cô gái, thấy nàng vẫn ngồi yên lặng đó, gió chiều thổi tóc bay lất phất qua vai. Trong mắt tôi lúc đó, nàng thiệt đẹp hơn bất kỳ hình ảnh nào tôi từng tưởng tượng. Mà cũng từ đó thôi thúc trong tôi khởi lên biết bao nhiêu chuyện kỳ cục.
Tôi tưởng tượng... giá như nàng nghiêng qua, rồi nói nhỏ với tôi: “Anh Hòa, em... thương anh.”
Tôi tưởng tượng... giá như nàng là vợ tôi thiệt, sáng sáng nấu nước pha trà, chiều ra trước sân phơi áo.
Tôi tưởng tượng... tôi với cô sống bên nhau trong một căn nhà nhỏ gần bờ sông Đồng Nai, ngày ngày đưa nhau đi chợ, tối tối nghe ve kêu mà tựa đầu vào nhau kể chuyện đời.
Trời ơi, sao tôi lại nghĩ xa đến vậy? Mới gặp nhau chừng nửa buổi chiều mà tôi đã để lòng mình đi xa dữ vậy sao? Tôi vốn đâu phải đứa dễ yêu, cũng không thuộc hạng đa tình. Chắc có lẽ tại nơi này đẹp quá, trời chiều buồn quá, lòng tôi lại trống quá nên có người ngồi cạnh là lòng liền sinh mộng.
Mà tôi có dám nói ra đâu. Cái tánh tôi xưa nay vẫn vậy, thương ai thì thương dữ lắm, mà biểu nói tiếng nào là cứng miệng. Nói năng với bạn bè thì lanh lắm, tới chuyện trai gái là mắc cỡ y như con nít bị bắt gặp ăn vụng. Người ta nói mấy thằng trai thật tình thì nhát như cún.
Thành ra bao nhiêu cái mộng trong đầu tôi nào là chuyện cưới hỏi, chuyện chung thân, chuyện tương lai, rốt cuộc cũng chỉ là để ngó cô cười một chút nữa thôi. Tôi tự an ủi mình:
“Thôi kệ, gặp cô như vầy cũng đủ vui rồi. Trời cho được nhiêu hưởng nhiêu. Đừng đòi thêm, đừng mong chi hơn.”
Chiếc thuyền vẫn nhẹ trôi giữa lòng hồ Long Ẩn. Mặt nước bây giờ đã sẫm màu tím, phản chiếu ánh trời chiều dần lụi về phía rặng núi xa xa. Gió nhè nhẹ như có bàn tay ai mơn trớn lưng áo.
- Thôi trễ rồi, mình vào bờ đi anh.
Cô nói nhỏ nhẹ vậy thôi, mà nghe sao như tiếng gió thổi qua ngọn trúc, lướt qua một cõi mơ đang dần khép lại.
Tôi giật mình. Ồ vậy là cô để ý thời gian kỹ lắm. Mới đó thôi mà đã mười lăm phút trôi qua nhanh như chong chóng giữa chiều lộng gió. Tôi nhìn đồng hồ, lòng hơi sững lại. Thiệt tình sao một khoảnh khắc ngắn ngủi mà cứ ngỡ đã dài bằng một buổi chiều sống cả một đời.
Tôi quay qua nhìn cô. Nàng vẫn dịu dàng như thuở mới bước vào hồ. Ánh mắt không còn lấp lánh như ban đầu, mà giờ lặng hơn, như mặt nước vừa gợn một chút rồi lặng lại. Tôi gật đầu, khẽ nói:
- Ờ, cũng nên. Trời chiều cũng sắp tắt mất rồi.
Trong bụng tôi nghĩ, chắc cô cũng nhớ bữa cơm chiều, nhớ ba má ở nhà đang đợi cửa. Tôi tưởng tượng hình ảnh căn nhà ngói, ánh đèn dầu thấp thoáng trong gian bếp, má cô đứng chờ bên mâm cơm còn nóng hổi. Nghĩ đến đó, tôi càng thêm mến cô cái nết đoan trang, biết nghĩ, biết chừng mực.
Còn tôi cũng phải về thôi. Dẫu lòng còn tiếc, mà cái gì cũng phải có điểm dừng. Ban đêm ở đây không tiện thiệt. Mình đàn ông con trai thì không ngại, chớ cô là con gái, đi khuya về trễ mang tiếng không hay. Thêm nữa, cái hồ này chiều tối nhìn ra mênh mông buốt lạnh, nước đen như mực, cây cối chập chờn bóng lá, nghĩ tới thôi cũng đủ rợn người. Mà lạ một điều, tự nãy giờ tôi chẳng hề thấy sợ, cứ như có một cái gì đó trong lòng khiến tôi bình thản đi theo cô mà không chút ngờ vực.
Tôi xoay nhẹ tay lái, đạp mấy vòng bánh nước để quay thuyền vào bờ. Chiếc thuyền rẽ sóng một cách lặng lẽ như lúc rời bến. Mặt hồ vẫn êm, không một tiếng rì rào, chỉ có mấy cánh chim muộn lướt ngang bầu trời, kêu vài tiếng đơn côi như gọi nhau bay về tổ.
Lúc ấy, tôi chỉ ước giá như con đường quay vào bờ dài hơn một chút, chỉ một chút thôi cũng được. Để tôi còn có thể ngồi bên cô thêm vài phút, hít thêm mùi tóc gió thổi, nghe thêm vài câu chuyện chưa kịp kể, và biết đâu gom đủ can đảm để nói một điều thật lòng. Nhưng rốt cuộc tôi vẫn không nói gì cả.
Chỉ thuyền cứ thế lặng lẽ trôi, còn tôi thì trôi trong lòng mình lửng lơ như chiếc lá lặng lẽ quay tròn giữa mặt nước chiều nay.
Thuyền vừa cập vào bờ, tôi chưa kịp đạp nhẹ cho nó sát mé thì lão già hồi nãy đã từ đâu đi xuống, hai tay đút túi, đôi dép nhựa sồn sột, cái áo sơ mi lính bạc màu bay phần phật. Lão cúi xuống cột dây thuyền một cách chậm rãi, kỹ càng như thể sợ thuyền biết chạy mất. Xong rồi, lão đứng thẳng dậy, quay sang tôi, ánh mắt nhìn kỳ lạ làm sao. Như thể tôi là một con vật gì đó trong chuồng lạ mà lão chưa từng thấy.
Rồi lão lẩm bẩm, giọng khàn khàn, từng chữ một như rít qua kẽ răng:
- Chàng này... bị khùng rồi.
Tôi nghe vậy, bất giác nhíu mày. Nhưng rồi cũng chỉ cười nhạt, không đáp. Mấy người già sống lâu, hay nói chuyện ngang dọc, nhất là gặp khách lạ mà đi một mình giữa chiều tối thì coi như kẻ dở hơi, chớ gì.
Tôi bước lên bờ, cô gái theo sau. Chẳng hiểu sao, vừa đặt chân lên đất liền, tôi chợt thấy trong lòng hơi lạnh, không phải vì gió, mà vì cái gì đó khó tả lắm như thể cảnh vật chung quanh vừa đổi khác trong một cái chớp mắt.
Trời sụp tối nhanh một cách kỳ cục. Mới nãy còn thấy ánh tím hoàng hôn loang loáng trên mặt hồ, vậy mà chưa kịp chớp mắt thì màn đêm đã ụp xuống như tấm mền dày đắp ngang trời. Đường đi bắt đầu mờ mịt, bụi cây hai bên như tối thẫm lại, lặng thinh đến đáng ngờ. Ánh đèn vàng từ mấy trụ nhỏ dọc lối đi lấp lóe lên, mỗi bóng một khoảng cách, xa xôi và lạnh lẽo. Cảnh lúc chiều còn hữu tình mộng mơ bao nhiêu, giờ bỗng ma mị và ẩn ức bấy nhiêu.
Tôi đưa mắt nhìn quanh. Không còn nghe tiếng trẻ cười, cũng không thấy bóng cặp tình nhân nào dạo hồ. Chỉ có tôi và cô, đi giữa cái khung cảnh lặng lẽ mà gờn gợn như trong một giấc mơ cũ.
Chúng tôi đi gần tới cái chòi lợp lá lúc chiều qua đây còn thấy có mấy người ngồi uống nước mía. Giờ trống trơn. Gió lùa qua nghe phất phơ như hơi thở ai bên tai.
Lúc ấy, cô gái quay sang nhìn tôi. Dưới ánh đèn vàng mờ mờ, đôi mắt cô long lanh như nước đọng trên cánh sen.
- Anh đừng để ý mấy lời ông lão đó. - Cô nói, giọng nhỏ mà rõ từng chữ.
Tôi cười nhẹ, gật đầu:
- Tôi đâu có để bụng gì đâu. Tánh tôi ai nói gì cũng bỏ ngoài tai hết.
Cô cười nhẹ, rồi nói tiếp, lần này nghe có chút trách nhẹ, mà như kể lể:
- Ông đó em cũng không ưa gì. Lúc trước, ổng thấy em đi thuyền một mình, cái cũng càm ràm y chang vậy. Nói nhỏ như em mà dám ra hồ một mình, rồi nói này nói kia. Em nhớ tới giờ luôn á.
Tôi nghe mà chưng hửng. Ủa, vậy là cô từng ra hồ một mình, giống hệt lời ông lão nói. Mà ông ta... cũng nói tôi đi có một mình. Ủa kỳ ha? Nhưng không lẽ cả hai người đều nói bậy? Hay... hay là họ quen nhau trước rồi?
Tôi lén đưa mắt nhìn cô. Nàng vẫn đi bên tôi, tóc còn vương mùi nước hồ, tà áo lướt theo từng bước nhẹ. Không, cô thật mà. Người thiệt, chớ không phải ảo ảnh gì đâu. Tôi tự nhủ. Rồi thôi, cũng chẳng thèm nghĩ ngợi thêm nữa. Đêm xuống rồi, lạnh quá rồi. Mà lòng tôi... lại thấy ấm một cách lạ lùng.
Hai người cứ thế đi tiếp, lặng lẽ mà thong dong như thể không còn ai trên cõi đời này ngoài tôi với cô. Đường mòn dẫn ra phía ngoài hồ khúc này càng đi càng vắng. Đèn đường cũng thưa thớt hẳn đi, chỉ còn ánh trăng vắt vẹo sau mấy tầng mây lấp lóa lối về.
Đi được chừng một đoạn, bỗng Thư dừng lại, đưa tay chỉ ra xa về phía tây bắc. Tôi nhìn theo tay cô, thấy mờ mờ trong bóng đêm một ngọn đồi lô xô. Lúc đầu tôi chưa nhận ra, nhưng lát sau quen mắt, mới sực nhớ ra... đó chính là núi Bửu Long. Ờ ha, núi Bửu Long, cái núi nổi tiếng từ hồi tôi còn học trung học, dân Biên Hòa ai mà không biết, ở đó có chùa Long Sơn, xưa giờ linh thiêng lắm, dân ở Cù Lao, Tân Vạn hay đi cúng rằm, lên sám hối cầu duyên cầu lộc tùm lum.
Nhưng điều lạ là giờ này, trời đã tối mịt rồi, vậy mà ở phía sườn núi lại thấy mấy ánh đèn neon sáng trưng! Sáng kiểu lạ lắm, không phải đèn nhà dân, cũng không phải chớp nháy như quán ăn, mà là ánh sáng trắng xanh, đều đặn, hắt qua từng tầng lá, càng nhìn càng thấy lạnh lưng. Tiếng kinh Phật từ trên đó vọng xuống lờ mờ, nghe như gió rít qua kẽ đá, lẫn trong tiếng chuông mõ đều đều. Cảnh vật thiệt ra cũng không có gì dữ dội, vậy mà tôi rùng mình không hiểu do lạnh, do mệt hay do cái gì đó không nói được thành lời.
Thư vẫn nhìn về phía đó, rồi nhỏ nhẹ nói:
- Nhà em sau lưng chùa đó. Em phải về kẻo trễ, người nhà đang đợi.
Tôi khựng lại nửa bước. Ủa? Nhà sau chùa? Sao lạ vậy ta... Tôi tính hỏi thêm, nhưng rồi chỉ gật đầu vì thấy cô bắt đầu rảo bước. Lòng tôi tự dưng nghe bùi ngùi chi lạ. Mới nãy còn đạp vịt cười đùa bên hồ, giờ đã gần chia tay. Cái cảm giác chưa kịp hiểu người mà đã phải xa người nó lạ dữ lắm như ăn tô hủ tiếu ngon mà bị kêu tính tiền giữa chừng, thiệt uổng.
Tôi ngập ngừng rồi lấy hết can đảm nói:
- Cô Thư... ờ, để tôi tiễn cô về tới nhà nha? Dù gì trời cũng tối, đi một mình vậy... tôi không an tâm.
Cô quay lại, ánh mắt thoáng ngại ngùng nhưng kiên quyết:
- Thôi... anh cứ về trước, đoạn đường lên chùa này cũng không tiện.
Tôi lúng túng:
- Có gì đâu, hay tôi đi tới cổng chùa cũng được. Ai để con gái về một mình chớ nên.
Cô ngập ngừng một lát, rồi gật nhẹ, cười hiền hiền:
- Vậy thì... anh đi cùng em tới ngõ vào sau chùa. Nhưng tới đó thôi.
Tôi mừng trong bụng, nhưng cũng chỉ gật đầu, không dám làm lố. Hai đứa lại tiếp tục đi, lần này con đường dốc dần lên, lát đá loang lổ, hai bên là bụi tre và những bức tường đá phủ rêu xanh mướt. Tiếng kinh tụng vẫn vẳng vẳng nghe như từ một cõi rất xa vọng về.
Lòng tôi vừa vui vì được đi thêm đoạn với cô, mà cũng vừa thấy khó tả, như thể đang đi vào một nơi nào đó không hẳn thuộc về trần thế. Tôi nhìn bóng dáng Thư đi phía trước, tà áo dài khẽ lướt trong gió như sương khói. Dù gần mà có khi tôi lại có cảm giác cô xa cách lạ kỳ.
Nhưng càng bước tới gần chân núi, khung cảnh quanh tôi bỗng đổi khác hẳn. Không còn cái vẻ mơ mộng ban chiều nữa. Thay vào đó là một thứ gì đó... rờn rợn, mát lạnh chạy dọc sống lưng.
Những tiếng ểnh ương, dế mèn, cắc cắc, tắc lưỡi từ trong các hốc đá bỗng đồng loạt cất lên như có ai dàn nhạc sẵn chờ đúng khoảnh khắc này mà gảy, nghe râm ran rồi vọng lại từ nhiều phía, văng vẳng giữa vách đá rêu phong. Cái mùi đất ẩm và rễ mục xông lên ngai ngái, mùi nhang khói từ hướng chùa cũng thoảng vào, lẫn với hương lá mục. Tôi hít nhẹ một cái mà thấy khó tả lắm.
Gió từ triền núi thổi xuống cũng đổi khác lạnh như có ai thổi sau ót. Tôi rùng mình. Lòng bỗng thấy lạnh thiệt lạnh. Mồ hôi sau lưng nổi từng mảng như có ai vừa áp tay vào gáy tôi rồi rút ra.
Tôi nhìn sang Thư vẫn đi, dáng chầm chậm, áo trắng lướt nhẹ dưới ánh đèn hiu hắt. Nhưng lúc này, cái ánh sáng vàng hoe từ đèn đường soi lên gương mặt cô cũng khác khác. Vẫn đẹp, vẫn thánh thiện, nhưng dường như quá thanh thoát không giống người thường.
Tôi cố trấn tĩnh, giọng run run nói:
- Thôi tới đây chắc được rồi... chắc cô quen đường về nhà sau chùa hơn, cũng không sợ gì đâu.
Thư dừng lại, không nói gì. Tôi cũng ngừng bước. Trong lòng còn mông lung, còn biết bao điều muốn nói. Tôi muốn nói một lời thiệt lòng, một cái gì đó từ trái tim mình đang nghẹn, nãy giờ không nói được.
Tôi quay qua nhìn cô, định cất tiếng...
Nhưng Thư đã đứng đó, im lặng, ánh mắt nhìn tôi, nụ cười chậm rãi mà hiền hiền... buồn buồn.
- Chào anh... Em đi.
Cô nói nhỏ, rồi quay lưng. Tôi chưa kịp bật ra câu “Anh yêu em”, thì...
- Ê, anh kia! Làm gì đi vô đây giờ này? Không sợ ma nhát hả?
Một giọng nói thô, lớn, từ phía sau vang lên làm tôi giật bắn mình. Tôi quay phắt lại, hóa ra là ông bảo vệ, cái ông già hay trực cổng khu hồ.
Tôi vội chỉ tay về phía Thư:
- Tôi... tôi đưa cô đó về, cô nữ sinh nãy giờ đi với tôi đó... Cổ nói nhà ở sau chùa...
- Đâu cô nào đâu?
Trời... không còn ai cả. Đường trống trơn. Bóng cây ngả xuống, chập chờn, không thấy cô đâu. Không một tiếng chân, không một hơi thở. Như thể... cô chưa từng tồn tại.
Tôi bủn rủn cả người, quay sang ông bảo vệ, miệng lắp bắp:
- Ủa... rõ ràng... hồi nãy còn đi kế bên tôi mà... Cổ mặc áo dài trắng...
Ông bảo vệ nhìn tôi một hồi, mặt đăm đăm. Rồi ông thở dài, giọng trầm xuống:
- Cậu là người thứ mấy rồi, không nhớ nữa...
- Ông nói thế là sao?
- Ai tới đây cũng kể y chang vậy. Cách đây chừng năm rồi, có một cô nữ sinh trường Ngô Quyền đẹp lắm, lanh lắm, có người yêu mà bị gia đình cấm cản, cuối cùng cổ nhảy hồ tự tận.
Tôi nghe tới đó, lạnh hết cả xương sống.
- Cái xác thì người ta vớt lên rồi, đem về chôn cất đàng hoàng, nhưng cái hồn thì hổng biết... Có người nói cổ chưa đi được, cứ lẩn quẩn nơi hồ. Mỗi chiều, đúng giờ này phía chùa Long Sơn người ta lại tụng kinh cầu siêu. Họ nói cổ hay về đó nghe.
Tôi đứng như trời trồng. Tay chân rũ rượi. Không biết mồ hôi hay sương lạnh mà lưng áo ướt đẫm.
May mà ông bảo vệ bước tới, đỡ nhẹ vai tôi rồi dẫn tôi ra phía cổng, vừa đi vừa lẩm bẩm:
- Thôi... về đi cậu. Đêm nay trăng xấu, chớ ở lâu... hồn người thương chưa siêu mà cậu cứ lẩn quẩn đây, có ngày không về nổi bây giờ.
Tôi đi theo như kẻ mất hồn. Lòng tôi một bên là bàng hoàng, một bên là lưu luyến. Một tình cảm kỳ lạ vừa mới chớm đã bị cắt đứt giữa chừng, như tơ chưa kịp kết đã bị ai cắn đứt ngang.
HẾT
Bình luận
Chưa có bình luận