Tôi tên Mai. Hai mấy tuổi, thật lòng cũng không nhớ rõ nữa. Ở cái xóm lao động này người ta lo bữa cơm tới chiều, mấy ai rảnh mà đếm tuổi mình đâu chứ. Tôi chỉ biết, từ lúc hiểu chuyện cho tới giờ, chưa một lần tôi gọi ai là cha mẹ cho tròn miệng. Mẹ tôi mất ngay sau khi sinh tôi ra, nghe đâu băng huyết, không kịp cứu. Còn cha thì biệt tăm hồi tôi còn đỏ hỏn, chưa kịp mọc cái răng sữa đầu tiên. Người ta đồn ổng theo một chị bán bánh canh trong chợ rồi mất hút luôn.
Tôi sống với dì Tư - em ruột của mẹ. Dì nghèo rớt mồng tơi, một mình bám víu cái sạp nước nhỏ xíu đầu chợ để sống. Dì không chồng, không con, cũng chẳng phải người mềm mỏng. Dì nuôi tôi như nuôi đỡ vậy thôi, có cơm thì ăn, không thì thôi, chẳng chừa sức mà dỗ dành. Có bữa dì bực, dì cằn nhằn: "Tao lo đủ thân tao là giỏi rồi. Mày có đói thì cũng đừng khóc to à nghen, để người ta dị nghị."
Tôi lớn lên như cây cỏ bên mương, hễ cứ mưa thì rướn lên cao, nắng gắt lại héo úa. Không ai dạy tôi phải cười khi vui, phải im lặng khi buồn. Tôi chưa từng được đi học. Dì Tư bảo: "Biết chữ để làm gì. Học rồi cũng đi bán nước như tao thôi." Thế nên là lúc nhỏ, tôi hay lén đứng ngoài cửa lớp tiểu học gần chợ, nghe cô giáo đọc bài. Vài chữ quen tai, tôi tự đánh vần. Sau này có khách đưa giấy ghi số điện thoại hay địa chỉ, tôi nhìn hoài mà đoán ra được vài ba chữ. Còn lại thì nhờ người đọc giùm.
Tôi ở với dì cho tới năm mười tám tuổi thì cuộc sống đổi khác. Hôm ấy dì đang kéo nước thì bỗng ngã quỵ, mặt trắng bệch, tay run cầm cập. Bác sĩ bảo bị suy tim, phải nghỉ ngơi uống thuốc đều. Mà tiền đâu ra? Tôi đành thay dì lo cơm nước, dọn dẹp, rồi ra đứng bán luôn tại cái sạp nước đầu chợ. Từ tinh mơ tới tối mịt. Đêm về, tôi lại tranh thủ khâu vá cho khách, là mấy ông tài xế đường dài hay rách quần, đưa tôi khâu vài đường chỉ, trả năm ba ngàn. Dưới ánh đèn dầu lập lờ, tôi ngồi khâu đến rã rượi cả mắt. Có đêm gió lùa, tôi nghe tiếng ai đó thì thầm sau vách lá, khúc khích như đứa con nít đang cười. Quay lại thì không thấy gì, chỉ thấy con mèo đen đứng chồm hổm trên mái tôn, mắt nó sáng như hòn than, cứ nhìn tôi đầy tinh quái.
Một lần ngồi sạp, tôi thấy cô hàng rong bán mấy con búp bê vải nhỏ xíu mặc váy hoa, đeo nơ đỏ. Tụi trẻ con cứ nhìn theo mà cười toe toét. Tôi thấy cũng làm mê mẩn, rồi về nhà lục đống vải vụn của dì, cắt cắt, khâu khâu. Con búp bê đầu tiên tôi làm trông như cái gối rách vậy. Mắt thì lệch, chân dài chân ngắn. Vậy mà con gái bà chủ ở sạp bên lại cứ ôm hoài, còn nằng nặc đòi mua. Tôi bán liền.
Từ đó, tôi bắt đầu làm búp bê vải. Tôi nào có khéo tay đâu, chỉ là ráng từng chút một thôi. Kim đâm vô tay thì rút ra, lau máu rồi lại khâu tiếp. Ban đầu vài con bán lẻ, dần dà khách quen đặt chơi Trung thu, Noel, Tết Thiếu nhi. Mỗi con năm ngàn, may đẹp thì mười ngàn. Tiền ít mà đều đặn, đủ mua gạo, mua thuốc cho dì.
Mẹ để lại căn nhà với mảnh vườn nhỏ xíu phía sau. Hai dì cháu tôi ở bao năm như ở trong cái hộc tủ, vừa chật vừa ẩm thấp, mưa thì dột, nắng thì nóng như rang bánh tráng ấy. Tôi ngủ dưới sàn, lấy bao bố làm gối, áo mưa che bụi từ mái tôn rơi xuống. Tôi chưa từng mơ sang giàu, chỉ mong có mái nhà không dột và có người ngồi ăn cơm cùng.
Rồi tới lúc dì Tư yếu hẳn, nằm liệt trên cái giường tre ọp ẹp. Mắt dì mờ đục, miệng hay lẩm bẩm gọi tên mẹ tôi. Có hôm dì nắm tay tôi, lặng im một lúc rồi thều thào: "Sống sao đừng khổ hơn tao là được rồi, Mai à."
Bốn hôm sau thì dì mất. Không ai đưa tang cả, chỉ có tôi với bà Sáu trong xóm buộc khăn trắng, lặng lẽ thắp nhang rồi chôn dì ngoài bãi đất hoang sau chùa. Kể từ đó, nhiều đêm tôi hay mơ thấy dì đứng ở đầu giường. Dì không nói mà chỉ nhìn chằm chằm tôi rồi quay lưng bước ra vườn. Có khi tôi nghe tiếng dép mòn lẹp xẹp ngoài hiên lúc khuya lơ khuya lắc, nhưng mở cửa thì lại chẳng thấy ai. Gió thổi tắt đèn, bóng mấy con búp bê trên vách cứ lay qua lay lại, như có ai vừa chạm vào chúng nó vậy.
Những ngày sau, nhà chỉ còn mình tôi trống huơ trống hoác, gió luồn qua kẽ mái nghe lạnh cả lưng. Tôi hãy cứ dậy sớm, nấu nước sôi, pha trà đá, với cả chặt dừa mang ra ngoài sạp. Trưa nắng chang chang, mấy người công trình ghé uống nước. Có bữa chưa kịp lau mồ hôi thì đã có khách gọi, tôi vừa bưng ly nước vừa ráng nhoẻn miệng cười cho người ta vui bụng.
Hôm ấy, tôi gặp anh Hòa.
Anh làm hồ ở công trình gần đó. Anh cao lớn, bờ vai rộng, da ngăm, tay lúc nào cũng dính bụi xi măng, miệng mồm thì ít nói. Ảnh hay ghé mua ly chanh đá, để lại tiền rồi gật đầu “khỏi thối”. Có bữa thấy tôi xách nước nặng, ảnh chạy lại bưng phụ, không hỏi han hay cười cợt gì cả, vậy thôi mà tôi lại thấy ấm lòng. Anh chàng tứ cố vô thân, không mẹ cha, không nhà cửa. Nghe đâu ảnh ngủ nhờ dưới lán công trình, hết việc thì xách đồ đi nơi khác.
Vài tháng sau, ảnh dọn về ở cùng tôi. Không cưới xin, cũng chẳng thiệp hồng, chỉ là hai kẻ côi cút gặp nhau giữa dòng đời trôi nổi. Gia tài của ảnh ngoài chiếc xe đạp và đôi dép tổ ong thì chẳng còn gì. Còn tôi? Tôi có cái rổ kim chỉ, mấy xấp vải vụn và bếp than lúc đỏ lúc tàn. Vậy là sống chung.
Sạp nước mỗi ngày một vắng, người ghé mua cũng thưa dần. Tôi đành dẹp sạp, về nhà ngồi khâu búp bê cho khách đặt. Anh Hòa đi làm hồ cả tuần, chủ nhật về sớm, có bữa dúi vô tay tôi trứng vịt còn nóng. Có ảnh, lòng tôi dịu hơn, đêm ngủ thì đã không còn giật mình vì tiếng gió đập mái tôn nữa.
Nhưng rồi những ngày sau đấy, Hòa bắt đầu về muộn. Áo nồng nặc mùi rượu, giọng thì lè nhè, ánh mắt nhìn tôi đã không còn như thuở ban đầu nữa. Có lần trên cổ áo ảnh dính vết son đỏ. Tôi hỏi tới, ảnh gắt: “Bạn nhậu thôi.” Hỏi thêm thì ảnh đập tay xuống bàn, mặt đỏ gay, còn cả dọa đánh nữa. Tối đó ảnh bỏ đi. Mất hai ngày mới mò về, mặt mày lầm lì, không thèm xin lỗi hay giải thích lấy một câu. Tôi dần quen. Người ta đi, không ai tiễn. Ở, cũng chẳng ai đón.
Rồi một hôm, tôi phát hiện mình có thai. Buổi chiều hôm ấy nóng như đổ lửa. Tôi đứng giữa căn bếp ẩm thấp, tay cầm tờ kết quả siêu âm mà cứ run run. Tôi nói với Hòa. Ảnh nghe xong thì không vui, chỉ thở dài rồi lầm bầm: "Ừ, thì lỡ rồi… đẻ đi."
Tối hôm đó đang ngủ thì ảnh trở mình, đập nhẹ vào vai tôi gọi dậy, rồi nói giọng khàn khàn: "Tao thấy... con búp bê mày khâu… nó cử động. Nó nhìn tao."
Tôi hé mắt ra nhìn, tưởng ảnh mớ ngủ nên chỉ ậm ừ cho qua. Nhưng ảnh không ngủ nữa mà ngồi hẳn dậy, rồi mặt quay vô góc phòng. Mắt ảnh cứ thế mà dán vào đống búp bê đặt sát vách. Tôi nhìn theo nhưng chỉ thấy một lũ búp bê đầu nghiêng nghiêng, tóc đen bằng chỉ thắt chùm, mắt may bằng hai nút nhựa tròn đen. Thế là tôi kệ Hòa, nằm quay mặt vào tường. Không hiểu sao khi ấy trong người bỗng thấy lạnh toát. Lạnh từ lưng chạy lên tới gáy.
Hôm sau thì ảnh bỏ đi luôn. Người ngoài đồn, thấy ảnh dắt theo một cô gái trẻ đi Sài Gòn làm công trình. Tôi nghe rồi lặng thinh, chẳng còn gì để giữ nữa. Tôi ở lại một mình với cái bụng ngày một nặng trĩu. Cô Trang gần bên thấy tôi cúi không nổi, chạy qua phụ lấy đồ phơi. Có bữa tôi ôm lưng thở dốc, bà Sáu lặng lẽ đặt trước cửa tô cháo trắng với vài miếng trứng muối. Không ai hỏi nhiều. Tôi biết ơn lắm. Nhưng cái tôi cần nhất là có một ai đó ở lại, thì lại không có. Phải rồi, họ còn phải lo cho cuộc sống của họ nữa chứ.
Thế là tôi vẫn cứ khâu búp bê. Những tháng cuối thai kỳ, tôi làm mỗi ngày bốn, năm con. Ngồi riết tê cả chân, bụng nặng chèn xuống hông, lưng ê ẩm nhưng nào dám nghỉ. Tiền bán búp bê mua được sữa với mấy bộ quần áo cũ cho con, thêm nữa một cái chậu nhựa nhỏ và cái giỏ mây sửa lại thành nôi.
Và rồi, Tôi sinh con ở trạm y tế xã. Chỉ có một mình tôi. Đau đến cắn rách môi, mồ hôi ướt đẫm lưng áo, tay tôi bấu lấy mép giường mà chẳng có ai nắm. Con tôi sinh ra vào lúc chập choạng tối. Là con gái. Nó bé tí đỏ hỏn, bàn tay nhỏ như chiếc lá non. Tôi ôm con bé vào lòng, ngực tôi nóng rực như có lửa cháy. Tôi đặt tên nó là Tép.
Ngày lại ngày, tôi ôm con ngủ mỗi đêm. Căn phòng nhỏ chỉ đủ chỗ trải một cái chiếu, đặt thêm cái nôi bằng giỏ mây. Tôi dỗ nó bằng những câu hát ru không trọn vần, lời quên lời nhớ, như từng mảnh chắp vá từ ký ức mờ xa.
- Ngủ ngoan, Tép nhỏ ơi, đời này mẹ chịu rồi.
Ban ngày tôi vẫn làm búp bê. Đâu có dám nghỉ. Nếu mà nghỉ, lấy đâu ra tiền mua sữa, mua băng vệ sinh cho con, mua cái tã lót cũ ở tiệm đồ si đây? Tôi ăn ít lại. Mỗi lần nấu cháo, tôi múc cho mình nửa chén, phần còn lại để nguội, cho con. Có bữa chẳng nấu được gì, tôi gặm ổ bánh mì khô để lót dạ. Bụng đói cồn cào, nhưng lòng lại an yên. Vì thấy con bú được, ngủ được. Nghe tiếng con ọ ẹ giật mình thở đều rồi ngủ tiếp, tôi thấy đời mình còn chút ánh sáng.
Tôi làm riêng cho con một con búp bê nhỏ xíu. Nhỏ hơn mấy con tôi thường may bán. Tôi lựa miếng vải tốt nhất, một mảnh thun hoa hồng ai đó cho từ mấy tháng trước, cất kỹ trong bao ni lông. Mắt búp bê là hai cái nút áo đen bóng, miệng thêu bằng chỉ đỏ, tóc là len màu nâu xoăn xoăn, mềm như sợi rễ non. Tôi khâu từng đường chắc chắn, vuốt từng mép vải cho thẳng thớm. Đó là con búp bê đầu tiên tôi làm mà không nghĩ tới chuyện bán đi.
Tép thích lắm. Con bé hay ôm nó ngủ, cầm lắc lắc rồi cười toe. Có bữa tôi nói với nó:
- Con có bạn rồi đó. Bạn này mẹ làm riêng cho con à nghen.
Con bé nào đã biết nói, chỉ ư ư đáp lại, hai tay níu chặt lấy con búp bê, như thể sợ ai giành mất.
- Ngủ ngoan, Tép nhỏ ơi, đời này mẹ chịu rồi.
Rồi cái ngày đó cũng tới.
Trời hè như thiêu như đốt. Mặt đường cũng phải bốc khói. Tôi đang khâu đơn hàng gấp, tầm mười con búp bê mặc đồ Trung thu, là của sạp đồ chơi ngoài chợ đặt. Gấp lắm, họ nói sáng mai phải giao. Tôi thấy cũng áp lực, mới phải tranh thủ từng phút. Con Tép thì nằm trong nôi, bên cạnh cái quạt máy chạy lạch cà lạch cạch. Nó khóc một chặp rồi im. Tôi liếc sang thấy nó còn nhúc nhích, bụng phập phồng nhẹ. Nghĩ chắc nó đã ngủ nên cũng ráng may cho xong cái đầu búp bê. Ừ, chỉ còn vài mũi nữa thôi.
Xong việc, tôi quay lại. Bỗng dưng lúc này, tôi thấy mặt con bé tím tái. Mắt nhắm nghiền, tay đã chân mềm nhũn. Cái khăn tôi lót đầu cho nó bị xô lệch, phủ kín lên mặt lúc nào không hay. Tôi hoảng hốt nhào tới, tay run bần bật gỡ cái khăn ra, lật con dậy. Trời ơi, nó đã không còn thở, không còn thấy động đậy. Môi nó nhợt như tro, chẳng còn sắc hồng thường thấy mỗi khi bú xong nữa.
Tôi gào lên, lật con úp xuống rồi xoa lưng, thổi ngạt, nắn ngực, làm tất cả những gì mà tôi từng thấy trên tivi. Nhưng chẳng có gì thay đổi cả. Người nó cứ mềm tuột ra như con búp bê nhồi bông. Nhưng đây là con tôi. Con tôi mà.
Tôi ngay lập tức bế con lao vụt ra khỏi nhà mà quên cả xỏ dép. Chiếc xe đạp dựng trước hiên, tôi leo lên, đạp một mạch ra trạm y tế xã.
Ba cây số. Đường xóc, trời rát. Mắt tôi không thấy gì ngoài hình ảnh đứa con gái đang nằm gọn trong lòng, đầu gục vào bầu ngực. Cứ mỗi lần vấp phải ổ gà, tim tôi lại như muốn văng ra khỏi lồng ngực. Tôi vừa đạp, vừa gọi: “Tép ơi, ráng lên nghen, con ráng lên nghen…”
Tới nơi, tôi xô cửa vào rồi đặt con Tép lên bàn, giọng như vỡ ra:
- Làm ơn cứu con tui! Nó ngạt thở! Mới có mấy phút hà! Còn cứu được! Làm ơn…
Bác sĩ bước ra. Ông nhìn tôi, rồi nhìn con bé đang nằm bất động trên mặt bàn. Ông đứng lặng đi một chút, không hỏi gì, không đo mạch, cũng chẳng thấy sờ vào con tôi.
Ông chỉ nói mỗi một câu:
- Chị… đưa cháu về lo hậu sự đi. Không cứu được đâu.
Tôi hét lên:
- Ông chưa làm gì hết! Ông chưa bắt mạch! Nó còn ấm nè! Ông nghe hông?
Một cô y tá đứng sau kéo tay áo ông. Tôi nghe cô ả rì rầm sau lưng:
- Hình như... bả bị thần kinh. Kệ đi, bác sĩ.
Lại thêm một vài người khác thầm thì to nhỏ:
- Bà này sảng à! Đi về đi.
Trời ơi! Những người ở đây, họ đều điên cả rồi. Tôi không cãi, cũng không nói gì nữa, bèn bế con chạy ra ngoài, leo lên xe đạp phóng về. Trời dần sụp nắng, nhưng tôi không còn thấy gì. Trái đất lúc đó như một đống tro bụi khô rã rời. Gió tạt vào mặt, tôi cũng không hề cảm được.
Tối hôm ấy, tôi đào đất sau vườn. Không cuốc xẻng gì hết. Chỉ độc có mỗi hai bàn tay không.
Đất khô cứng như đá, khiến hai đầu móng tay tôi bật máu. Đầu gối đã trầy xước, nhưng mà tôi không thấy đau. Tôi đào từng chút, từng chút, rồi đặt con vào cái khăn lớn đã giặt sạch, quấn quanh người nó cho gọn gàng. Tôi đặt thêm con búp bê, cái mà nó ôm ngủ mỗi đêm. Cả hai nằm đó, trong hốc đất tôi tự tay đào. Xong xuôi, tôi lấp lại bằng tay. Mỗi nắm đất rơi xuống, như một phần linh hồn trong tôi đã mất đi mãi mãi.
Không nước mắt hay tiếng khóc than. Có lẽ tôi đã chẳng còn gì để tuôn ra nữa. Cả ngày hôm ấy tôi không ăn, không ngủ, mà cứ ngồi mãi trong góc nhà. Mắt mở trừng trừng, mà hồn tôi cứ trôi đi đâu. Căn phòng im ắng như cái hộp rỗng không còn sự sống. Tôi nghe tiếng con khóc, nghe tiếng chân nó đạp nhẹ vào nôi, nghe tiếng nó cười ú ớ giữa đêm.
Nhưng rồi không còn gì nữa hết. Chỉ còn cái nôi trống lặng và con búp bê thứ hai, hãy còn chưa may xong.
***
Đêm đó, tôi không tài nào chợp mắt được.
Trong người cứ có gì đó bứt rứt lạ lắm. Như có ai đang nằm kế bên thở khẽ, mà tôi không thấy được vậy. Trời hè oi ả không có lấy một cơn gió, ấy vậy nhưng tôi vẫn cứ thấy rùng mình ớn lạnh. Lạnh từ trong xương sống lạnh ra.
Tôi trở mình, quay qua phía cái nôi. Trống trơn, con Tép đã đâu còn ở đó nữa. Cũng không còn cái mền mỏng với con búp bê nhỏ mà nó hay ôm ngủ. Tôi ngồi dậy, toan đi lấy nước vì đã khát khô cả cổ, nguyên ngày nay đâu đã ăn uống gì. Thì bất chợt lúc ấy, tôi thấy ở ngay phía cuối chân giường mình, có thứ gì đó đang ngồi ở đấy.
Tôi nheo mắt nhìn cho rõ. Và trong bóng tối lờ mờ, tôi vẫn nhận ra được màu hồng nhạt, và chấm hoa nhỏ li ti. Là con búp bê. Cái con mà tôi đã may riêng cho Tép. Vải thun hoa ai đó tặng cho từ mấy tháng trước, mắt là hai cái nút áo đen, tóc len nâu xoăn, miệng thêu chỉ đỏ.
Chính là nó. Không lẫn vào đâu được.
Con búp bê ngồi chồm hổm ở đó không động đậy, nhưng dáng nó kỳ lạ lắm. Đầu có hơi gục xuống, hai tay nó đặt lên đầu gối. trông cứ y như một đứa con nít đang ngồi chơi đất vậy. Tôi bèn đứng bật dậy. Tay vịn vô vách để khỏi té, vì đôi chân tự nhiên run cầm cập như bị trúng gió. Tôi nhớ rõ, chính tay mình chôn nó rồi mà? Gói trong cái khăn bông sạch, để bên cạnh con Tép, đắp đất cẩn thận. Tôi nhớ từng nắm đất mà tôi vùi xuống. Móng tay bật cả máu vì đào bằng tay không.
Ấy thế mà... Sao giờ nó lại ở đây? Ngồi ngay phía cuối giường tôi. Tôi toan tiến lại, cầm nó lên. Nhưng vừa mới nhấc chân bước một cái, thì…
- Má...
Một âm thanh nho nhỏ như tiếng muỗi kêu, thế nhưng tôi lại nghe rõ mồn một. Tôi đứng khựng lại. Tóc gáy bỗng dựng ngược cả lên.
- Má ơi… lạnh quá má… sao má siết chặt khăn vậy… con… con hông thở được…
Tôi giật bắn mình, bất giác lùi lại, đoạn ngồi phịch xuống chiếc ghế tựa kế bên đầu giường. Tay tôi bụm lấy tai, tim đập lên thình thịch. Tôi toan mở miệng, mà hai vành môi cứ như đã bị ai đó lấy kim khâu chặt lại với nhau. Và rồi… tôi nghe được tiếng thì thào rất khẽ, vang ra… như từ trong chính con búp bê ấy.
- Sao má bỏ con dưới đất vậy má… con chưa ngủ mà… má chưa hát ru cho con mà…
Lúc bấy giờ, Tôi mới hoảng hốt la lên:
- Mày... Tao làm ra mày từ vải vụn! Tao không đẻ ra mày! Con tao tao chôn rồi!
Roẹt.. Roẹt..
Không phải là gió, mà tôi nghe như có tiếng gì đó rít lên khe khẽ trong tai. Cái âm thanh ấy nghe như tiếng người nghiến răng trong đêm, hay tiếng móng tay cào nhẹ lên vách ván mục. Tường nhà cứ như đang khép lại, cả căn phòng dần co hẹp từng chút một, khiến tôi cảm thấy khó thở.
- Con là tép mà… má hông nhớ con sao?… giờ con hổng ngủ được… con lạnh… lạnh lắm má ơi…
Tôi nhìn con búp bê. Sao nó không nhúc nhích, mà hai con mắt bằng nút áo ấy cứ nhìn lại tôi trừng trừng. Không phải kiểu nhìn vô hồn của một con búp bê. Mà là nhìn tôi. Nhìn đúng vào tôi.
Chợt tôi thấy hai tay nó cử động nhẹ, rất nhẹ. Đoạn, nó chầm chậm, ngẩng đầu lên một chút.
Tôi kinh hãi hét lên, rồi chạy tới chụp lấy nó. Sao mắt mũi gì cũng đen kịt cả thế này? Trong tay tôi, nó đã không còn mềm nhẹ như đồ vải bình thường nữa. Toàn thân nó lúc này bỗng dưng lại nặng trịch, mà còn lạnh lạnh như bị ngấm nước lâu ngày.
Một mùi vải mốc xộc thẳng vào mũi tôi, mùi đất, và mùi… mùi của xác chết thối rữa.
- Tao hổng phải má mày! - Tôi hét lên như điên dại. - Tao hổng phải má mày! Mày là đồ tao may ra! Là búp bê! Hông phải người! Hổng phải con tao!
- Con là Tép mà má… con nằm dưới đất ngộp lắm… má mở khăn ra đi… má… đừng bỏ con nữa…
Tôi hoa mắt, nghiến răng, rồi trong một giây hãi hùng, liền gom hết sức, ném mạnh nó vào tường.
Bịch!
***
Căn phòng lạnh lẽo với ánh đèn tuýp trắng xanh. Mai ngồi trên ghế im lặng, hai bàn tay cô đặt trên đùi, từ lúc bước vào đây cho đến bây giờ vẫn không ngừng run rẩy. Cổ áo cô đã nhàu nát, vài sợi tóc dính vào gò má vì mồ hôi chưa kịp khô. Đôi mắt trũng sâu của cô cứ nhìn chằm chằm vào khoảng không trước mặt.
Đối diện Mai là một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, mặc áo sơ mi tay xắn gọn, cúc cổ cài kín. Anh tên Giang - điều tra viên của đội trọng án Công an xã.
Ánh Mắt anh ta sắc tới nỗi có thể khiến mọi tên tội phạm ngồi trước mặt phải khai ra chỉ bằng ánh nhìn. Nhưng giờ phút này, đối diện anh lại là một người phụ nữ tay không tấc sắc, đầu tóc rối bời, mặt mũi thì vô cùng hốc hác, chân vẫn còn vết bùn khô chưa cạo sạch. Một người mẹ vừa mất đi đứa con mà mình rứt ruột đẻ ra, và vừa ném một “vật thể lạ” vào tường vừa la hét đến mức khiến hàng xóm gọi báo vì nghe tiếng thất thanh giữa đêm.
Sau khi nghe Mai tâm sự toàn bộ cuộc đời của mình trước và sau khi sinh đứa bé. Giang ghi chú lên giấy những điểu mấu chốt, anh ngả lưng ra sau, gõ gõ vài cái lên cuốn sổ tay rồi nghi hoặc hỏi:
- Bằng tay không?
- Vâng.
- Chị đào đất bằng tay không để chôn con mình. Một mình?
Mai gật đầu một cái.
Điều tra viên Giang mở tập hồ sơ. Lấy ra vài tấm ảnh, là những gì đội pháp y vừa gửi về cho anh sáng nay.
- Tôi xin lỗi, chị Mai! Nhưng chúng tôi có nghĩa vụ phải xác minh lại. Theo như tổ khám nghiệm hiện trường thì cái hố sau vườn nhà chị không có dấu hiệu chôn xác người. Đất rất nông, lớp bề mặt chưa kết chặt, không thấy mẫu tóc, vết máu, hay chất dịch nào từ cơ thể phân hủy. Chỉ có... một con búp bê được bọc trong khăn lông.
Mai mở to mắt nhìn anh cảnh sát, như không tài nào tin nổi vào tai mình. Cô ngập ngừng hỏi lại:
- Anh mới nói gì…?
- Con búp bê. Không phải xác người.
Không khí trong phòng bỗng đặc lại như sáp. Vài giây sau, có một tiếng nấc bật ra từ cổ họng Mai.
- Không… không thể nào… tôi nhớ rõ mà… chính tay tôi… tôi chôn con bé mà…”
Giang đặt tay lên bàn, rút ra thêm vài tờ tài liệu rồi nói:
- Và con búp bê mà chị ném vào tường tối qua, hiện đang được lưu giữ trong phòng vật chứng. Có dấu hiệu… là thi thể của một đứa trẻ sơ sinh.
Mai đờ người. Cổ họng cô bật ra một thứ âm thanh đau đớn:
- Khônggg!!
- Chúng tôi chưa dám kết luận điều gì. Nhưng mẫu tóc, máu khô và dấu vết da người… hoàn toàn trùng khớp với ADN của chị.
Mai ôm lấy đầu thở gấp. Toàn thân cô run lẩy bẩy như đang bị sốt rét. Giang thấy thái độ cô như vậy thì liền hạ giọng:
-Chị Mai… chị có từng nghe tới một chứng bệnh gọi là ‘loạn thần sau sinh’ không?
Mai lắc đầu, hai đầu móng tay cứ thế bấu chặt vào nhau.
- Đó là một rối loạn tâm thần hiếm gặp nhưng nghiêm trọng, thường xảy ra trong vòng vài tuần sau khi sinh con. Người mắc có thể bị ảo giác, hoang tưởng, mất kết nối thực tại. Trong trường hợp của chị, có khả năng… chị đã không thể phân biệt đâu là thật, đâu là tưởng tượng. Chị tin rằng con mình đã chết. Nhưng thực tế, chị có thể đã chôn nhầm một con búp bê, còn đứa con gái của chị…
Giang chưa nói hết câu thì Mai đã ngẩng mặt, lẩm bẩm:
- Không đúng… con bé chết rồi mà… nó tím tái… tôi thấy mà… cái khăn… cái quạt… nó ngạt thở…
- Chị có chắc không? Chị có thể nhớ chính xác mọi việc không?
Mai không trả lời.
Buổi thẩm vấn kết thúc. Cô được đưa về phòng giám sát y tế trong khu bệnh viện tâm thần huyện. Họ nói tạm thời sẽ theo dõi cô tại đây, ít nhất cho tới khi có kết luận chính thức từ giám định pháp y.
Giang không rời đi ngay. Anh quay lại phòng hiện vật. Trong hộp niêm phong, vẫn nằm yên đó con búp bê nhỏ, mặc váy thun hoa hồng, tóc len nâu, hai mắt bằng nút áo đen đã tróc lớp sơn. Nhưng trọng lượng nó không giống búp bê. Nặng trĩu, hình khối không hoàn toàn đồng đều. Anh biết bên trong không phải bông nhồi, mà là một hài nhi.
Giang ghi chép lại mấy dòng, gấp sổ, và đứng lặng rất lâu. Bên pháp y sẽ xác minh, nhưng anh đã quen với cái mùi ấy, mùi thịt người, mùi ẩm ướt của bùn đất, và nỗi kinh hoàng mà những người mẹ mắc chứng loạn thần sau sinh phải trải qua, có lẽ chúng... không cách nào có thể gọi tên được.
Trong phòng bệnh, Mai ngồi cười một mình, Tay cô vẫn làm động tác như đang khâu một cái gì đó bằng sợi chỉ vô hình. Miệng thì cứ lẩm nhẩm mãi một câu hát ru:
- Ngủ ngoan, Tép nhỏ ơi… đời này… mẹ chịu rồi…
***
Bình luận
Chưa có bình luận