“Tiên sinh lại đến uống à?” Giọng của một cô gái Nhật Bản vang lên trong một khoảng không gian nhỏ hẹp với ánh sáng vừa đủ để có thể nhận ra những chuyển biến của sắc diện trên gương mặt.
“À, là tiểu thư Yamashita đấy à!” Tôi thở dài.
“Xin tiên sinh chớ gọi như vậy, tôi cũng đâu phải là một tiểu thư con nhà danh giá đâu cơ chứ.” Người con gái mặc trang phục hầu bàn kiểu Âu phục đang đặt trước mặt tôi một ly trà xanh cùng với mấy thức đồ nhắm quen thuộc như đậu phộng rang muối, đậu nành. Rõ ràng việc vào một quán rượu ở khu Ginza và gọi trà đã là một việc vô cùng bất thường.
Tôi không đợi nàng nói hết câu liền lấy một điếu thuốc lá ra châm hút. Vừa hút, tôi vừa thả làn hơi khói vào không trung một cách buồn bã. “Dù có là một kỹ nữ ở Hanamikoji hay một cô đào hát ở mấy rạp Kabuki thì một người con gái vẫn nên được người ta trân trọng dùng hai tiếng tiểu thư để gọi tên chứ.”
“Trân trọng,” tôi cười khẩy. Mình mà cũng có tư cách để nói ra cái từ này sao? Lạy Chúa nếu quả thật có ai đó biết được những ghê tởm ẩn chứa sau lớp mặt da người mà tôi mỗi ngày diện lên cho thế gian xem, hẳn là họ sẽ kinh hoàng mà há hốc mồm mất thôi. “Trân trọng,” trong từ điển đối xử với phụ nữ hay những sinh vật mang giới tính trái ngược với mình, tôi hoàn toàn không có bất kì định nghĩa vào về một sự trân trọng như thế cả.
Tôi quen biết với Kikyo hồi hai tháng trước. Nhưng tôi đã đến quán này tầm hơn sáu tháng rồi. Trước khi gặp Kikyo, tôi cũng có ngồi uống với nhiều cô phục vụ khác nhau, Mihiko, Nene hay Yatsuko. Tuy nhiên, kể từ khi gặp cô bé, tôi đã chỉ đến và uống với một yêu cầu duy nhất là được cô ấy hầu rượu, hoặc trà. Nếu như ngày hôm ấy, cô bé đi học hoặc không đến vì bất kì lý do gì, tôi sẽ không lưu lại quán.
“Tiên sinh sẽ ngồi lâu chứ?” Kikyo hỏi tôi, giọng cô bé có phần hơi buồn.
“Ngày mai tôi có tiết.” Tôi ngập ngừng nhìn em ấy một chút nhưng để tránh cho sự quyến quyến quá đỗi giằng xé, tôi liền quay đi ngay lập tức. Tôi gắp một miếng đậu nành cho vào miệng rồi cầm cốc trà xanh lên uống cạn một hơi. “Nhưng tôi ngồi một chút cũng không sao đâu.”
Em đến ngồi cạnh tôi. Vẫn dáng vẻ quen thuộc, em rót đầy lại cốc trà mà tôi vừa uống cạn. Em ấy thật khác biệt với cô bé rót trà cho tôi tại quán trà trong con ngõ vắng gần nhà. Kikyo có một sự dạn dĩ của một người con gái trưởng thành dù em ấy khi đó với cô bé hầu trà tôi lúc này cũng ngang ngang tuổi nhau.
“Chị Mihiko kết hôn rồi.” Kikyo mở đầu câu chuyện.
Mihiko, cô ấy là một cô gái phục vụ phòng trà đã lâu năm. Sau đấy thì chuyển hẳn sang bar vì thu nhập không ổn định. Người phụ nữ đã từng kết hôn hai lần và cũng ly hôn từng ấy lần. Và bây giờ cô ấy lại kết hôn. Tôi uống một ngụm trà nhỏ rồi khẽ đưa đũa gắp một ít đậu phộng rang muối đưa lên miệng.
“Hôm qua đã là ngày đi làm cuối cùng của chị ấy.”
“À, hôm qua tôi không có đến đây.”
“Phải, em cũng không đến, em có buổi lên lớp và phải về rất muộn.”
Kikyo dường như không hề hay biết lý do mà tôi không đến quán chính là vì em không có mặt. Dường như tôi có cảm giác em đang muốn nói đến một việc gì đó chứ không đơn thuần là nói về Mihiko. Giữa em và Mihiko không có sự thân thiết đến mức em sẽ dành một khoảng thời gian hầu trà cho khách để nói về cô ấy. Tôi dám chắc là như thế hoặc chính tôi đang tự cho mình là một tiến sĩ biết tuốt.
“Tiên sinh có tin vào duyên phận không?” Kikyo lại nói. “Chính xác là tiên sinh có tin vào sự tồn tại của một con người không.” Em ngập ngừng. Hình như chưa nói hết ý, em lại tiếp tục. “Như kiểu một ai đó vừa gặp hôm nay, ngày mai họ đã biến mất rồi vậy.”
“Kí ức của ta vẫn còn lưu giữ về người đó nhưng thực tế thì đối với ta họ đã hoàn toàn tan biến rồi có phải không?” Tôi hỏi lại Kikyo như muốn xác minh lại những gì đang diễn ra trong đầu tôi có thực sự trùng khớp với những suy nghĩ của em ấy không.
“Như kiểu ta bị mất định nghĩa về người đó vậy, mặc dù người ấy vẫn đang tồn tại ở một nơi nào đó.”
Một người vẫn đang còn tồn tại nhưng tâm trí tôi lại mất đi định nghĩa về người đó sao? Đột nhiên tôi nhớ đến người phụ nữ bán hoa sống ở phía sau con ngõ vắng dẫn ra chùa Zenrin. Phải, một con người vẫn đang tồn tại nhưng tôi hoàn toàn không thể nhớ được tên của cô ấy. Kể cả khi tôi đang ở quán bar tại khu Ginza hay quán trà ở gần nhà. Một kiểu không có định nghĩa. Không hẳn là một sự vô nghĩa mà là trống rỗng.
“Tiên sinh, ông sao đấy, trà nguội hết rồi đó.” Cô bé châm trà mặc kimono gọi tôi. “Em lấy thêm hoa cúc cho tiên sinh nhé. Còn trần bì thì chắc là khỏi nhỉ?”
Dứt lời, cô bé lại đứng dậy, lại lướt qua tôi. Lại một khung cảnh những đóa hoa cúc trên vạt áo của em trôi bồng bềnh. Tôi vẫn chưa có cơ hội hỏi tên em.
Một lúc sau khi em quay lại, có lẽ em không còn thấy tôi nữa. Tôi nhân lúc em đi vào lấy thêm hoa cúc cho vào ấm trà thì đã đến quầy thanh toán và rời đi. Tôi không chắc mình sẽ gặp lại em. “Duyên phận?” Kikyo đã từng hỏi tôi về duyên phận, và tôi đã im lặng không trả lời cho em ấy nghe định nghĩa của tôi về hai từ ấy. Và sau ngày hôm ấy, tôi cũng chẳng còn cơ hội nào để nói cho em nghe định nghĩa của tôi về hai từ duyên phận mà em đã đề cập trong buổi uống trà hôm ấy cả. Cứ như thể Kikyo đã mất hẳn định nghĩa trong tâm trí tôi vậy.
Sau bữa trà ở cái quán trong khu Ginza, tôi bận suốt cả tuần. Nói đúng hơn là tôi phải làm báo cáo và đã bị trễ hạn đến mức vị giáo sư già phải gọi tôi lên phòng giáo vụ để mắng và thúc tôi một trận ra trò. Ngoài chuyện tôi phải vắt chân lên cổ để làm cho xong báo cáo hay việc tôi phải ngồi lì trong thư viện đọc hàng tá sách về thời Meiji, Taisho hay Showa thì mọi thứ hình như vẫn diễn ra như cũ. Hoặc là chính tôi đang cố gắng cho rằng khoảng thời gian mình phải gồng mình vì những chuyện cá nhân thì vũ trụ với nhân gian vẫn chảy một dòng chảy chậm rãi.
Cuối cùng, tôi cũng nộp bài vừa đúng kì hạn được giao. 23 giờ 59 phút, tôi nhớ rõ ràng khi nhấn phím “enter” của bàn phím để gửi báo cáo đi, đồng hồ điện tử của màn hình hiện rõ con số này. Ngay cả dấu thời gian của thư điện tử cũng ghi rõ như vậy. Không có trục trặc gì xảy ra sau đó, lá thư đã an toàn nằm gọn trong hộp thư của giáo sư. Buổi mắng nhiếc của ông, rốt cuộc cũng có được cho nó một chút hiệu quả nào đấy mặc dù tôi biết rằng cái hiệu quả ấy hoàn toàn không đáng kể một chút nào cả.
00 giờ 03 phút, tôi xuống bếp lấy rượu uống. Người đàn bà tôi đang ở cùng không uống rượu nhưng nàng luôn để ít nhất một chai con whiskey và một lon soda để tôi có thể pha mỗi khi tôi phải thức khuya để làm việc. Đến tận bây giờ, tôi vẫn không tài nào có thể nhớ nổi tên nàng là gì. Còn về khoảng thời gian nhấm nháp whiskey cùng pho mát, tôi chợt cảm giác một mái tóc nhè nhẹ hiện ra trong tâm trí mình. Đã hơn mười ngày rồi tôi không gặp Kikyo.
Ngày hôm sau, tôi không phải lên lớp. Những việc lặt vặt ở nhà cũng không nhất thiết phải động tay động chân nên từ sớm tôi đã ra khỏi nhà để tản bộ. Từ chỗ tôi đang ở là Mikata đến Ginza phải mất gần một giờ. Nhưng không hề gì. Chỉ cần nghĩ đến một ngày được vui chơi thỏa thích ở khu Ginza thì bao mệt mỏi nơi lòng bàn chân bỗng chốc tan vào miền hư ảo.
Hôm nay, tôi sẽ được gặp Kikyo. Đó là suy nghĩ của tôi sau khi dùng một vài thực phẩm đóng gói sẵn ở cửa hàng tiện lợi rồi bắt chuyến xe đầu tiên. Trước khi đến quán bar, tôi xuống xe cách trung tâm khu Ginza tầm mười lăm phút đi bộ. Vẫn còn sớm quán bar không đời nào mở cửa lúc này. Tôi ngẫm nghĩ một chút rồi dạo loanh quanh khi Ginza.
Giống như khi đó, tôi lúc này sau khi dời gót không lời từ biệt khỏi quán trà nhỏ nằm trong con hẻm vắng, tôi rảo bộ dọc theo đường Trần Quốc Thảo đi quận 3. Giống như một bản nhạc đã bị lạc điệu hoặc người soạn nhạc khi soạn ra bản nhạc này đã ngủ quên chỗ quan trọng nhất, đôi chân tôi cứ thế bước về một miền vô định. Dù là giữa lòng thành phố Sài Gòn hay Tokyo, tôi cũng không sao nhận biết được mình còn đang tồn tại hay chỉ là một thực thể có hình thù nhưng đã mất đi ý nghĩa vốn có.
Hãy còn quá sớm để đi bar. Tôi tự nhủ rồi đưa tay vào ngực áo rút một điếu thuốc lá ra hút. Những thói quen có hại cho sức khỏe này tôi bắt đầu hình thành từ khi sang Nhật học.
Thành thật mà nói, những điều tốt đẹp thường chẳng bao giờ được người ta để ý đến một chút nào cả. Như việc chạy bộ hàng giờ liền ở bãi đất trống sau nhà hay tham gia những lớp tập thể dục dụng cụ. Tôi từ nhỏ đã mắc bệnh tim mạch (dù không phải bẩm sinh) nên những buổi sinh hoạt thể chất hay kiểm tra sức khỏe cộng đồng, tôi đều trốn tiệt không thấy mặt mũi. Sau này, ngay cả chế độ nghĩa vụ quân sự của chính phủ tôi cũng nhờ vào cái kim bài miễn tử ấy mà thành công vượt qua trong khi những người bạn đều phải tham gia vào kì huấn luyện quân sự khắc nghiệt. Mãi sau đó tôi mới biết việc tôi được tham gia lớp chính trị viên quân trường là nhờ vào cha tôi đã dùng những mối quan hệ gần xa cùng tài chính không khá giả cũng chẳng hạn hẹp của gia đình lót đường cho tôi. Và những chuyện tưởng chừng nhỏ bé như những tiểu tiết trong đời sống thị dân này lại góp phần tạo ra một con người sống theo chủ nghĩa cậu ấm khi tôi đặt chân ra ngoại quốc lần đầu tiên.
Gói thuốc lá đầu tiên tôi có được là nhờ vào số tiền vay mượn chỗ người con gái làm chủ tiệm hoa gần khu Mikata. Hôm đấy là ngày 19 tháng 6.
Ngày nhập học mà nhà trường quy định là ngày 10 tháng 9. Vị giáo sư trực tiếp hướng dẫn cho tôi và người xếp lịch học sẽ đến Nhật vào tháng 8. Riêng phần mình, tôi đã xin phép gia đình cho phép đi Tokyo sớm hơn dự kiến. Chủ yếu là chính bản thân tôi muốn ngắm nhìn nơi an nghỉ của một nhà văn mà suốt hai năm học đại học tôi vô cùng kính trọng và ngưỡng mộ.
“Dazai Osamu tiên sinh đúng không ạ?” Người thiếu phụ đứng ở quầy thanh toán hỏi tôi bằng một giọng có phần bất ngờ. “Thật hiếm thấy một sinh viên ngoại quốc lại có lòng yêu kính nhiệt thành với tiên sinh như vậy đấy.”
“Có gì sai sao thưa cô?” Tôi ngạc nhiên.
Ngày 18 tháng 6, tôi tản bộ dọc bờ sông. Rồi vô tình ghé chân vào cửa hàng hoa của người phụ nữ ấy. Đập vào mắt tôi là một phong cách trang trí vô cùng khác với lẽ thường. Vòng hoa tết bằng những đóa hoa loa kèn vàng, loại hoa mọc dại theo những bờ hàng rào mỗi khi hè đến. Không chỉ như vậy, khắp nơi đều được trang trí bằng những giỏ trái anh đào màu trắng trắng, hồng hồng. Tôi đoán đó không phải là trái cây thật mà chỉ là loại trái cây nhựa được người ta bày bán ở các siêu thị hoặc cửa hàng chuyên bán đồ trang trí. Không đơn giản chỉ là những bó hoa, những giỏ anh đào, người thiết kế phần trình bày còn đặc biệt công phu lắp một toa đường ray dọc dài theo cửa tiệm và để một đầu tàu máy xe lửa loại chạy than.
“C51-103, đi Aomori.” Tôi đột nhiên bật ra thành tiếng khi đứng cạnh bàn tính tiền.
“Tiên sinh cũng nhận ra sao?” Người phụ nữ ngạc nhiên. Tuy rằng tay vẫn tiếp tục đưa mấy món hàng tôi mua vào túi đựng, động tác của cô đã có phần chậm lại. Hình như kí ức đang cố gợi về một điều gì đó từ xa xăm.
“Chồng tôi, à cũng không phải, cha của con gái tôi hồi hai năm trước đi Aomori và không thấy trở về.”
Cô ấy nói chuyện với tôi sao? Tôi tự hỏi. Trên bàn không có điện thoại di động, cô ấy cũng không mang tai nghe và trong cửa hàng hoa cũng không còn một người nào khác ngoài tôi. Nhưng nói với tôi chuyện này để làm gì cơ chứ? Một người vừa trải qua mất mát sao? Hay chỉ đơn giản là cách của một người đàn bà bày tỏ tâm sự của mình với bất kì một người đàn ông nào mà cô ấy gặp. Là tìm kiếm một sự đồng cảm hay tìm kiếm một thứ gì đó cao hơn, sự hòa hợp chẳng hạn. Vấn đề là câu chuyện ấy đã xảy ra từ hai năm trước rồi. Là cô ấy chỉ nói với một mình tôi hay bất kì người đàn ông nào cũng tự nhiên trở thành một đối tượng cho cô ấy thổ lộ những tâm sự chỉ mình nàng hay biết?
“Người ta bảo anh ấy tự sát.” Cô ngập ngừng một chút trước khi đưa bó hoa loa kèn qua máy quét tính tiền. “Lại có người bảo rằng anh ấy đã đi mất cùng một người phụ nữ khác.” Người phụ nữ chợt nhắm hai mắt lại. Hình như nàng cố làm cho nước mắt không rơi ra.
“Và cô tin vào những điều đó?”
Tôi không nhớ lúc đó mình đã dùng cách thức xưng hô nào nữa. Là a-na-ta hay là o-ne-sa-ma nữa. Vừa hỏi, tôi vừa rút ví tiền ra và lấy vội hai tờ một man. Và sự thật thì tôi cũng chẳng hiểu vì sao khi đấy mình lại lấy nhiều tiền như thế ra nữa. Số tiền dùng để mua hai bó hoa và một ít đồ trang trí cho hoa cũng không đắt như thế. Nhưng trong thâm tâm, tôi biết rằng mọi hành động của mình đều phải xuất phát từ một nguyên do gì đấy. Nếu chẳng phải là một nguyên nhân khách quan dễ nhận ra thì ắt hẳn phải là một lý do siêu hình nào cũng nên.
“Tiên sinh không cần phải trả tiền cho bó hoa này đâu. Xem như là món quà tôi dành tặng cho Dazai Osamu tiên sinh đi. Dù gì ông ấy cũng đã chịu một nỗi thống khổ suốt hàng ấy năm trời khi người ta cứ buộc phải tổ chức ngày kị của ông vào 13 tháng 6.”
“Xin trân trọng.”
Khi tôi đến thanh toán tiền tại cửa hàng trà đạo gần nhà, cô chủ cửa hàng cũng đã nói với tôi những lời tương tự. Hiển nhiên không phải là về vấn đề của Dazai Osamu tiên sinh mà là vì vấn đề giữa tôi và cô bé phục vụ bàn. Qua lời kể chóng vánh của cô chủ (cũng là người thu ngân), tôi biết được đại khái một số chuyện của cô bé ấy. Nhưng những chuyện như vậy cũng không có gì là quá lạ lẫm trong lối sống hiện đại của một bộ phận tiểu thị dân. Đối với tôi, điều ấy có thể đáng nghe, nhưng để tôi lưu tâm thì hẳn cô chủ cần có nhiều cố gắng hơn nữa. So với người phụ nữ ở cửa hàng hoa ngày trước, khi nhắc về người tình của mình, cô ấy chọn một phương thức bán im lặng để bày tỏ nó ra. Và rõ ràng nó đã vô tình thu hút một chàng thanh niên chỉ vừa bước qua ngưỡng hai mươi lăm, hai mươi sáu như tôi. Cũng có thể, tôi khi ấy và tôi lúc này đã có nhiều chuyển biến. Hoặc dã đó là cái mà sau này khi gặp mặt Kikyo tôi mới chợt nhận ra. Là duyên phận.
Phải “duyên phận.”



Bình luận
Chưa có bình luận